PROBLEM OF UNIVERSALS – VẤN ĐỀ VỀ NHỮNG CÁI PHỔ QUÁT

http://triethoc.edu.vn/vi/ban-tin-triet-hoc/goc-dich-thuat/03-problem-of-universals-van-de-ve-nhung-cai-pho-quat-ky-1_348.html

https://en.wikipedia.org/wiki/Problem_of_universals

Trong siêu hình học, vấn đề về những cái phổ quát liên quan tới câu hỏi liệu các thuộc tính có hiện hữu không, và nếu có, chúng là gì. Thuộc tính là những chất hay mối quan hệ mà hai hay nhiều thực thể có chung với nhau. Nhiều loại thuộc tính, như những chất hay những mối quan hệ, được xem như là những cái phổ quát. Chẳng hạn, ta có thể hình dung ba miếng lót ly trên bàn đều có chung một phẩm tính là có hìnhtròn hay tính tròn, hoặc hai cô con gái có chung thuộc tính là con gái của Frank. Có nhiều thuộc tính như thế, chẳng hạn như người, đỏ, đực hay cái, lỏng, lớn và nhỏ, cao hơn, cha của, v.v…

Mặc dù các triết gia đồng ý rằng con người nói và nghĩ về các thuộc tính, nhưng họ lại bất đồng với nhau ở chỗ liệu những cái phổ quát này hiện hữu trong thực tại, hay chỉ hiện hữu trong  tư tưởng và lời nói mà thôi.

1. CÁC LẬP TRƯỜNG

Về vấn đề này nhìn chung có ba lập trường chính là: thuyết duy thựcthuyết duy danh, và thuyết duy tâm (đôi khi còn được gọi đơn giản là “thuyết phản-duy thực” khi nói đến những cái phổ quát).

1.1. Thuyết duy thực

Trường phái duy thực quả quyết những cái phổ quát là thực tồn – chúng hiện hữu và khác biệt với những cái đặc thù, vốn là hiện thân của chúng. Thuyết duy thực có nhiều hình thức. Hai hình thức chính là thuyết duy thực Plato (cái phổ quát [có] trước vật) và thuyết duy thực Aristotle (cái phổ quát [có] trong vật). Theo quan điểm của thuyết duy thực Plato, những cái phổ quát là những thực thể thực tồn và chúng hiện hữu độc lập với những cái đặc thù. Trong khi đó, thuyết duy thực Aristotle cho rằng những cái phổ quát là những thực thể thực tồn, nhưng sự hiện hữu của chúng tùy thuộc vào những cái đặc thù hiện thân cho chúng.

Các nhà duy thực có xu hướng cho rằng những cái phổ quát cần phải được thiết định như là những thực thể riêng biệt để nghiên cứu các hiện tượng khác nhau. Chẳng hạn, theo một lập luận phổ biến trong thuyết duy thực, mà ta có thể tìm thấy nơi Plato, phải có những cái phổ quát (nào đó) để những từ mang tính tổng quát có nghĩa, và những câu văn chứa đựng chúng là đúng hoặc sai. Ta hãy xem câu “Djivan Gasparyan là một nhạc sĩ”. Nhà duy thực quả quyết, câu này chỉ có nghĩa và diễn tả một sự thật bởi có một cá nhân cụ thể tên Djivan Gasparyan, là người sở hữu một phẩm chất nhất định, đó là  nhà nhạc sĩ. Như vậy, ta có thể giả định rằng thuộc tính này là một cái phổ quát tách biệt với cá nhân đặc thù có thuộc tính ấy.

1.2. Thuyết duy danh

Các nhà duy danh khẳng định rằng chỉ có những cái cá biệt hay những cái đặc thù mới hiện hữu, và phủ nhận sự thực tồn của những cái phổ quát (tức, phủ nhận việc chúng hiện hữu như những thực thể hay những (cái) tồn tại). Từ “nominalism” [thuyết duy danh] xuất phát từ tiếng Latinh nomen (“name” – tên), vì triết gia duy danh đồng ý rằng chúng ta chấp nhận nhiều thực thể có cùng một thuộc tính, nhưng lại biện luận rằng các thực thể chỉ chung nhau một cái tên, chứ không phải một tính chất thực tồn. Thuyết duy danh (đôi khi còn được gọi là “thuyết duy hạn từ”) có nhiều hình thức khác nhau, ba hình thức chính là thuyết duy danh tương đồngthuyết duy khái niệm, và thuyết duy danh tu từ. Thuyết duy danh được nhiều người tán thành hoặc  bảo vệ, như William of Ockham, Peter Abelard, D. C. Williams (1953), David Lewis (1953), và có thể cả H. H. Price (1953) và W. V. O. Quine (1961).

Các nhà duy danh thường biện luận cho quan điểm của mình bằng cách cho rằng thuyết duy danh có thể giải thích mọi hiện tượng liên quan, và do đó – theo nguyên tắc lưỡi dao cạo của Ockham hay một nguyên tắc nào đó về tính  đơn giản – thuyết duy danh được ưa chuộng hơn, vì nó thiết định ít thực thể hơn. Tuy nhiên, việc học thuyết duy danh có thể thực sự giải thích được toàn bộ hiện tượng liên quan không hãy còn là điều tranh luận.

1.3. Thuyết duy tâm

Các nhà duy tâm như Kant và Hegel cho rằng những cái phổ quát không thực tồn, chúng là những ý niệm trong tinh thần  của những hữu thể có lý tính. Họ không bác bỏ những cái phổ quát như là những tên gọi tùy tiện; mà đúng hơn, họ xem chúng như những phạm trù nền tảng [lượng, chất, tương quan, nhân quả] của lý tính thuần túy (hoặc như là những khái niệm thứ cấp phái sinh từ những phạm trù cơ bản này). Theo thuyết duy tâm, những cái phổ quát thực chất gắn  liền với tính lý tính của chủ thể đưa ra phán đoán.

Chẳng hạn, khi có người đưa ra phán đoán rằng cả hai chiếc lót ly đều tròn, họ không nói đến một điều độc lập với tinh thần (“tính tròn”) có ở trong cả hai vật dụng, họ cũng không đơn giản gán một cái tên (“tròn”) cho cả hai. Đúng ra là họ phần nào tạo nên chính khái niệm chiếc lót ly bằng cách cung cấp cho nó khái niệm tính tròn, vốn đã hiện hữu như một ý niệm trong đầu óc thuần lý của họ.

Như vậy, đối với các nhà duy tâm, vấn đề về những cái phổ quát chưa hẳn là vấn đề siêu hình học; đúng hơn, nó là vấn đề tâm lý học và nhận thức luận.

2. TƯ TƯỞNG THỜI CỔ ĐẠI

2.1. Plato

Plato cho rằng có sự phân biệt rõ nét giữa thế giới của những vật khả giác và thế giới của những cái phổ quát hay những mô thức: ta chỉ có thể có tư kiến đơn thuần về cái trước (đối tượng khả giác), nhưng lại có thể có tri thức về cái sau. Đối với Plato, ta không thể có tri thức về bất kỳ cái khả biến hay có tính đặc thù, vì tri thức phải vĩnh viễn tổng quát và không thể sai. Vì lẽ đó, thế giới của các mô thức là thế giới thực tồn như ánh sáng mặt trời, còn thế giới khả giác chỉ thực tồn trong bất toàn hoặc thực tồn một phần, như những chiếc bóng. Tuy nhiên, thuyết duy thực của Plato khác biệt rõ rệt với các thuyết duy tâm cận đại ở việc phủ nhận những mô thức vĩnh cửu là những cái do trí tuệ con người tạo ra.

Một trong những nhà duy danh đầu tiên phê bình thuyết duy thực của Plato là Diogenes xứ Sinope khi ông tuyên bố: “Tôi thấy những chiếc cốc và cái bàn của Plato, chứ không thấy tính cốc và tính bàn”.

2.2. Aristotle

Môn đệ của Plato là Aristotle không đồng ý với thầy mình. Ông biến các mô thức của Plato thành những nguyên nhân hình thức, những bản mẫu hay bản chất của các sự vật riêng lẻ. Trong khi Plato lý tưởng hóa môn hình học, thì Aristotle lại chú trọng đến tự nhiên và các môn học liên quan. Do đó, phần lớn suy tưởng của ông liên quan đến các sinh vật và thuộc tính của chúng. Bởi vậy, bản tính của những cái phổ quát trong triết học của Aristotle xoay quanh quan điểm của ông về các loài tự nhiên.

Chẳng hạn, ta hãy xem xét một cây sồi cụ thể. Cây sồi này là thành viên thuộc một giống, và nó có nhiều điểm chung với những cây sồi khác trong quá khứ, hiện tại, và tương lai. Tính chất phổ quát của nó, tức tính sồi, là một phần của nó. Một nhà sinh vật có thể nghiên cứu những cây sồi và biết đến tính sồi, và nói rộng hơn là biết về trật tự khả niệm nằm trong lòng thế giới khả giác. Bởi đó, Aristotle có niềm tin hơn Plato khi đến với nhận thức về thế giới khả giác, ông là nhà duy nghiệm mẫu hình sơ khởi và là người xây dựng nên phép qui nạp. Aristotle là một loại nhà duy thực mới, ôn hòa, về những cái phổ quát.

  1. TƯ TƯỞNG THỜI TRUNG ĐẠI

3.1. Boethius

Vấn đề những cái phổ quát được Boethius du nhập vào thế giới trung đại qua bản dịch tác phẩm Isagoge (Introduction – Du nhập) của Porphyry. Cuốn sách mở đầu như sau:

“Tôi sẽ không nói về loài và giống ở khía cạnh liệu chúng tồn tại (trong bản tính của vật) hay chỉ đơn thuần có trong quan niệm; cũng như liệu nếu chúng tồn tại, thì chúng là vật thể hay phi vật thể, chúng tách biệt hay nằm trong những cái khả giác, và tồn tại về những cái khả giác này, vì một luận thuyết như vậy sẽ uyên thâm vô cùng và đòi hỏi một công trình nghiên cứu rộng hơn”.

3.2 Duns Scotus

Duns Scotus kịch liệt phản đối cả thuyết duy danh lẫn thuyết duy khái niệm, thay vào đó ông bênh vực cho thuyết duy thực Scotus – đây là một lời đáp của thời trung đại đối với thuyết duy khái niệm của Abelard. Vấn đề những cái phổ quát có thể được quy về câu hỏi: cơ sở siêu hình học cho việc chúng ta sử dụng cùng một thuộc tính cho nhiều cái cá biệt (nếu có) là gì. Socrates là người và Plato là người. Có phải điều này có nghĩa là hẳn phải có một thực tại phổ quát nào đó – tính người – vì lẽ nào đó có thể lặp lại, mà ở đó cả Socrates và Plato cùng chia sẻ? Hoặc chẳng hề có gì chung trên phương diện siêu hình học ở họ? Những người cho rằng có một cái phổ quát thật sự nào đó hiện hữu bên ngoài tinh thần được gọi là các nhà duy thực; còn những người phủ nhận những cái phổ quát nằm ngoài tinh thần được gọi là các nhà duy danh. Scotus là một nhà duy thực về những cái phổ quát, và như mọi nhà duy thực, ông phải giải thích những cái phổ quát đó chính xác là cái gì: chúng có địa vị như thế nào, và chúng hiện hữu ra sao bên ngoài tinh thần. Do đó, trong trường hợp của Socrates và Plato, câu hỏi là “Cái tính người mà cả Socrates và Plato thể hiện là cái loại gì?” Một vấn đề liên quan mà những nhà duy thực phải đối mặt là vấn đề về sự cá biệt hóa. Cứ cho là có một thực tại nằm ngoài tinh thần nào đó chung cho cả Socrates và Plato, thì chúng ta cũng cần biết điều gì ở trong mỗi người khiến họ là những hiện thân riêng biệt của cái thực tại nằm ngoài tinh thần ấy.

Scotus gọi cái phổ quát nằm ngoài tinh thần này là “bản tính chung” (natura communis) và nguyên tắc của sự cá biệt hóa là “haecceity” – (haecceitas / sở ngã tính). Bản tính chung là chung ở chỗ nó “dửng dưng” với sự hiện hữu trong bất kỳ một số lượng những cái cá biệt nào. Nhưng nó chỉ hiện hữu bên ngoài tinh thần trong những cái đặc thù, mà trong đó nó hiện hữu, và trong đó chúng luôn được haecceitas “thu gọn” lại. Do đó cái bản tính chung – tính người – hiện hữu trong cả Socrates và Plato, mặc dù ở Socrates nó được cá biệt hóa bởi haecceitas của Socrates và ở Plato bởi haecceitas của Plato. Tính người Socrates là cá biệt và không thể lặp lại, tính người Plato cũng vậy; thế nhưng bản thân tính người lại là chung và có thể lặp lại, và về mặt bản thể học nó có trước bất cứ hiện thân đặc thù nào của nó.

3.3. William xứ Ockham

William người xứ Ockham lập luận chắc chắn rằng những cái phổ quát là sản phẩm của tư tưởng trừu tượng của con người. Theo Ockham, những cái phổ quát chỉ là những từ ngữ hoặc tên gọi, chỉ hiện hữu trong tinh thần và không có vị trí thực sự trong thế giới bên ngoài. Trong trường hợp những thực thể phổ quát, thuyết duy danh của Ockham không dựa trên lý thuyết Lưỡi dao cạo, nguyên tắc tiết kiệm của ông. Tức là, Ockham không đơn thuần cho rằng, không có lý do vững chắc nào để khẳng định sự hiện hữu của những cái phổ quát, để chúng ta phải cố làm vậy khi thiếu vắng những bằng chứng rõ rệt hơn. Không, ông cho rằng các lý thuyết về những cái phổ quát, hay ít ra là những lý thuyết mà ông xem xét, rõ ràng là không chặt chẽ; chúng hoặc là tự mâu thuẫn hoặc chí ít cũng vi phạm những điều chúng ta biết là đúng. Đối với Ockham, những thực thể phổ quát duy nhất đáng được bàn tới là những khái niệm phổ quát, và những hạn từ phổ quát trong ngôn ngữ nói hoặc viết phát sinh từ chúng. Trên phương diện siêu hình học, những khái niệm “phổ quát” này là những thực thể đơn nhất như mọi khái niệm khác; chúng chỉ “phổ quát” trong ý nghĩa chúng “có thể trở thành thuộc từ cho nhiều cái khác”.

Tuy nhiên, liên quan đến địa vị bản thể học chính xác của những thực thể khái niệm này, Ockham đã thay đổi quan điểm của mình theo thời gian. Đầu tiên ông chấp nhận cái được gọi là lý thuyết hư cấu, theo đó những cái phổ quát hoàn toàn không “thật sự” hiện hữu trong các phạm trù của Aristotle, thay vào đó chúng thuần túy là “những đối tượng có ý hướng” có một thể cách hiện hữu đặc biệt; chúng chỉ có một thứ thực tại-“tư tưởng”. Tuy nhiên, cuối cùng Ockham đi đến chỗ cho rằng lĩnh vực ý hướng của các thực thể “hư cấu” là không cần thiết, và vào giai đoạn soạn thảo các tác phẩm Summa of Logic và Quodlibets ông chấp nhận cái được gọi là lý thuyết trí năng, theo đó một khái niệm phổ quát chỉ là hành vi tư duy cùng một lúc về nhiều đối tượng; trên phương diện siêu hình học, một “hành vi” như vậy là một phẩm tính đơn nhất của một tinh thần cá biệt, và chỉ “phổ quát” ở ý nghĩa nó là dấu hiệu tinh thần của cùng lúc nhiều sự vật, và có thể khẳng định những sự vật đó trong các mệnh đề tinh thần.

3.4. Thuyết duy thực thời trung đại

Thuyết duy thực được cả Thomas Aquinas lẫn John Duns Scotus ủng hộ. Aquinas cho rằng bản chất của một vật và sự hiện hữu của nó rõ ràng là khác biệt. Về phương diện này ông gần với lời giảng của Aristotle. Còn thuyết duy thực của Scotus biện luận rằng không có sự phân biệt thật sự giữa bản chất và sự hiện hữu trong một sự vật, mà thay vào đó chỉ có duy nhất sự phân biệt về mặt hình thức. Cả hai ý kiến này đều bị học trò của Scotus là William bác bỏ.

3.5. Thuyết duy danh thời trung đại

Thuyết duy danh ban đầu được trình bày như một lý thuyết triết học thời trung đại. Triết gia và nhà thần học người Pháp, Roscellinus (khoảng 1050 – 1125), là người đề xướng xuất chúng cho quan điểm này trong thời kỳ đầu. Học thuyết này có thể được tìm thấy trong tác phẩm của Peter Abelard và phát triển rực rỡ với William of Ockham, nhà duy danh triệt để và có ảnh hưởng nhất. Phiên bản của Abelard và Ockham về thuyết duy danh đôi khi được gọi là thuyết duy khái niệm, học thuyết tự thể hiện như một con đường thứ ba giữa thuyết duy danh và thuyết duy thực khi khẳng định rằng có một điều gì đó chung giữa những cái cá thể, nhưng nó là một khái niệm thuộc về tinh thần hơn là một thực thể thực tồn, hiện hữu độc lập với tinh thần. Ockham biện luận rằng chỉ có những cái cá biệt mới hiện hữu, và những cái phổ quát chỉ là những cách thức của tinh thần khi muốn chỉ một tập hợp những cái cá biệt. Ông viết: “Tôi cho rằng một cái phổ quát không phải là thứ gì đó thực tồn, hiện hữu trong một chủ thể… mà là nó có một tồn tại chỉ như là một vật thể – tư tưởng trong tinh thần”. Nhìn chung, Ockham phản đối việc giả định bất kỳ thực thể nào không cần thiết cho các giải thích. Do vậy, ông viết, không có lý do nào để tin rằng có một thực thể gọi là “tính người” ngự ở bên trong, chẳng hạn như, Socrate, và không có giải thích gì thêm cho biện luận này. Điều này phù hợp với phương pháp phân tích mà từ đó trở đi được gọi là lưỡi dao cạo Ockham, nguyên tắc cho rằng việc giải thích bất kỳ hiện tượng nào cũng nên đặt ra càng ít giả định càng tốt.

Các nhà phê phán biện luận rằng những cách tiếp cận của thuyết duy khái niệm chỉ trả lời cho câu hỏi tâm lý học về những cái phổ quát. Nếu cùng một khái niệm được áp dụng một cách đúng đắn và không võ đoán cho hai cái cá biệt, thì hẳn phải có một sự tương đồng hoặc một thuộc tính chung nào đó giữa hai cái cá biệt đó, giúp biện minh cho việc chúng cùng nằm trong một khái niệm, cũng như đó đúng là vấn đề siêu hình học mà những cái phổ quát được đưa vào để giải quyết, đó là khởi điểm của toàn bộ vấn đề (MacLeod & Rubenstein, 2006, §3d). Nếu những tương đồng giữa các cái cá biệt được khẳng định, học thuyết duy khái niệm trở thành thuyết duy thực ôn hòa; nếu bị bác bỏ, học thuyết rơi vào thuyết duy danh.

This entry was posted in Chưa phân loại. Bookmark the permalink.