TRIẾT HỌC LÀ GÂY SỰ, PHẢN TỈNH VÀ LẬT ĐỔ TIỀN BỐI
( Trao đổi với GS Dương Ngọc Dũng )
Paul Nguyễn Hoàng Đức
Khi được BBC tiếng Việt hôm nay (22/7/21) hỏi về tính khách quan của Tạp chí TRIẾT, GS Dương Ngọc Dũng trả lời:
“…Đặc tính của triết gia, theo tôi, nằm ngay trong bản thân chữ PHILOSOPHIA của Hi Lạp mà tôi xin phép được diễn giảng theo ý riêng như sau:
P= PATIENCE & PERSEVERANCE= kiên nhẫn, kiên trì trong việc theo đuổi chân lý, cho dù không hề biết chắc liệu “chân lý” có thực sự tồn tại hay không…”
Tôi đã comment về ý này, cảm thấy thế là đủ nhưng nằm nghĩ, như vậy là nửa vời vớ vẩn ngại đụng chạm và tìm tế nhị với “đồng môn triết học” mà xuê xoa cho nhau, như vậy sẽ không bao giờ tiệm cận chân lý?! Và tôi quyết định viết. Mà viết thì phải tới bến, chứ không tới bến thì không thể thăng hoa thành hoa trái sinh nở, cũng không thể nhảy vọt đem đôi chân cuốc bộ vào nghệ thuật. Vậy tôi xin trao đổi thẳng thắn mấy lời, việc này không chỉ nhằm vào giáo sư DND, mà còn những đồng môn khác cùng những khán thính giả chầu quanh triết học.
Bước vào triết học phương Tây – tức Hy Lạp cổ, mở đầu là Socrate sau là Platon rồi Aristote, nó lần lượt có các bước chắc chắn mà không thể thay đổi hoặc thế nhượng sau: Hữu thể luận – còn gọi là Bản thể luận, với Kant còn nói dễ hiểu hơn là Thực thể luận – là Be trong tiếng Anh – Etre trong tiếng Pháp, và người Đức gọi là Cái đó – Dasein.
Không có Cái là nó (hữu thể – cái có, có lẽ đây là cách dịch qua tiếng Tàu của người Việt mà cái Là thành cái Có) thì chẳng có gì để bàn! Chắc chắn luôn! Vì chúng ta không thể bàn cái vu vơ không có. Khi Thiên Chúa hạ thế trước mắt Moses. Moses hỏi “Thưa Thiên Chúa, Ngài là ai?” Thiên Chúa đáp “Ta là Đấng Là (Ta là Đấng Có! Hay Đấng hằng hữu).
Vậy thì trước khi bàn mọi việc ở đời người ta phải xác định “nó có tồn tại không?” “nó có không?”. Nếu có thì nó là gì? Bản thể của nó là gì? Chính thế mà sau Hữu thể luận luôn là Bản thể luận.
Và người Hy Lạp đã xác định phổ quát: “Mỗi Hữu thể là một chân lý!” Cái bàn, cái cốc, con mèo trước mắt chúng ta, chúng tồn tại và có thật, và chúng đều là hữu thể tức cái có mang tên chúng. Triết gia tiền phong tiền hiện đại đã minh định điều này: Tinh thần còn dễ nhận biết hơn thân xác, vì tôi có thể nghi ngờ thân xác tôi có không, nhưng không thể nghi ngờ tinh thần mình đã đặt câu hỏi nghi ngờ đó (nếu không phải tinh thần thì thân xác đặt câu hỏi à?!)
Vậy thì chúng ta không thể vu vơ đến mức truy tầm chân lý nhưng không chắc nó có?!
Người châu Á hầu như không có căn cốt triết học, như Einstein đến Trung Quốc đã bảo: Người Hoa lười suy nghĩ, không cần biết đến logic hình thức và không chấp nhận hiện thực. Hiện thực là cơ sở của chân lý! Hiện thực lúc nào cũng ấm ớ sắc sắc không không thì đạt tới cái gì? Trong khi đó logic hình thức chủ yếu là Tam đoạn luận: trước hết bản thể A là A, khử tam hoặc A hoặc B không thể có cái C vừa là A vừa là B, sau đó đến tam đoạn luận toán học bắc cầu để tiến bước A=B, B=C, thì A=C… cứ thế bắc cầu thì A=Z. Nhưng người Hoa và châu Á chỉ loay hoay nhiều thế kỷ dậm chân tại chỗ A cứ là A. Người tri thức từng du học gì mà hỏi: chiếc ô tô A sau khi tai nạn còn là chiếc xe A nữa không? Dứt khoát cắn miệng như con hến quyết không dám trả lời là có hay không?! Việc này cũng đã được triết gia Mỹ Dewey xác định khi tới Trung Quốc: Người Hoa không có triết học và siêu hình học. Hiền giả Lâm Ngữ Đường người Hoa cũng nói: Trung Quốc không có triết học và khoa học. Còn triết gia Pháp Francois Jullien chuyên gia kỳ cựu về Trung Hoa bảo: Người Hoa chỉ có triết lý (sagesse – tức triết lý vụn chưa có hệ thống) mà không có triết học (philosophie).
Còn nước Mỹ thì sao? Tôi muốn nhắc tới môi trường quí vị và giáo sư Dương Ngọc Dũng đang sống, đó là cường quốc về nhiều mặt, nhưng không thể là cường quốc về bóng đá, cũng như chưa hẳn là cường quốc về triết học. Có mấy triết gia Mỹ rất đình đám như C. Peirce, W.James, George Santayana, J. Dewey chủ yếu thiên về Chủ nghĩa Thực dụng khi mà triết học hiện sinh đã xuống dốc thành thoái trào thất bại về tư duy thuần khiết. Đây là cách tôi muốn liên tưởng trong môi trường phản tỉnh. Trong thực tế rất nhiều con nhà giàu học dốt và các con nhà nghèo học giỏi. Cái đó người ta có thể gọi là “suy thoái đồng hóa và tiến bộ dị hóa”? Rất nhiều người Mỹ lo âu và phát biểu rằng: trẻ em Mỹ thiếu cá tính và dường như chúng bị đồng loạt chẳng phát lộ khả năng gì đặc biệt?!
Một triết gia cũng giống nhà sáng tạo. Khi một nhạc công chơi nhạc lờ đờ người ta thấy giống một cán bộ chơi bài học. Còn nhạc sĩ như Bethoven chẳng hạn, ông chơi bằng cả mái tóc tung xuống bả vai, chuyền dọc cánh tay và chảy xuống bàn chân vũ điệu dẫm pê-đan… ông đã trở thành nghệ sĩ! Các vị học nhiều đã là giáo sư mà còn mắc họng ngay miếng đầu tiên bước vào triết học. Tại sao? Vì các vị mới chỉ là triết học mô phạm mang nhiều tính quan sát mô phỏng của cán bộ, mà chưa suy lý như căn cốt để bước vào triết học. Cách học đó người Việt vẫn gọi là cách học kẻ trước người sau, sống lâu lên lão làng của mấy anh Mô Phạm.
Tôi xin kết thúc bài viết ở đây. Câu cuối cùng tôi xin nhắn nhủ, người Pháp có câu “một chiếc đầu biết làm còn hơn ngàn chiếc đầu chất đầy chữ”. Người Việt có một mặc cảm thường trực là đề cao và muốn loi choi vào triết học chẳng khác gì mấy anh dân quê chạy ra đón đám rước của nhà vua rồi bình tán hí hửng ra vẻ lắm, thế rồi viết các loại linh tinh, triết lý vụn, rồi cả Phật giáo lại ảo tưởng cứ cái gì suy nghĩ chiều cao là triết học?! Cách học của Á Đông là học làm quan. Học không suy lý. Đó cũng là cách người phương Tây nhận ra ngay Á Đông lười suy nghĩ. Mà nếu không suy lý thì chẳng bao giờ tiệp cận vào triết học cả?!
“Trực ngôn nghịch nhĩ”, nếu tôi có nói thẳng khó nghe xin giáo sư thể tất và châm chước!
Nguồn: https://www.facebook.com/paulnguyenhoangduc/posts/2882855135304954