List: Các Lối Ngụy biện

Contents

Vi phạm Logic

Phủ định tiền kiện

A xảy ra, do đó B tất yếu xảy ra.  Phủ định A, do đó phủ định B.

Ví dụ:
Nếu Louise đang chạy thì cô ấy đang chuyển động.
Louise đang không chạy.
Do đó, cô ấy đang không chuyển động.
BÌNH LUẬN: Chúng ta có thể thấy rõ ràng rằng thực tế Louise đang không chạy không tất yếu dẫn đến chuyện cô ấy đang không chuyển động. Những gì tiền đề chính cho chúng ta biết là nếu A xảy ra, B tất yếu sẽ xảy ra (Louise không thể đang chạy trong khi đang không chuyển động), nhưng nó không nói rằng A là điều kiện duy nhất cần thoả mãn để sinh ra B. (Louise có thể đang chuyển động vì cô ấy đang đi, hay đang trở mình lúc ngủ, hay đang đung đưa thư giãn trên chiếc ghế.) Nếu vậy, sự kiện A không xảy ra không cho phép chúng ta kết luận rằng B cũng sẽ không xảy ra. Hãy nhớ rằng đây là một lập luận thiếu căn cứ vì kết luận không được rút ra một cách tất yếu. Liệu kết luận có khả năng đúng không? Có thể nhưng chúng ta không thể biết chắc.

Khẳng định hậu thức

A xảy ra, do đó B tất yếu xảy ra.  B xay ra, do đó A xảy ra.

Ví dụ:
Nếu Louise đang chạy thì cô ấy đang chuyển động.
Louise đang chuyển động.
Do đó, cô ấy đang chạy.
BÌNH LUẬN: Ngay lập tức chúng ta nhận ra rằng kết luận không thể được rút ra một cách tất yếu. Tại sao không? Hãy quay lại tiền đề chính. Nó cho chúng ta biết một điều kiện cụ thể (Louise đang chạy) để có một hậu thức cụ thể theo sau (cô ấy đang chuyển động). Như đã nói trong lập luận trước đó, mệnh đề không nói rằng đây là điều kiện duy nhất cần được thoả mãn để hậu thức tất yếu xảy ra. Do đó, nếu hậu thức xảy ra (Louise đang chuyển động), chúng ta không thể kết luận rằng nguyên nhân duy nhất cho thực tại đó là điều kiện cụ thể này (Louise đang chạy). Có rất nhiều cách khác mà Louise có thể chuyển động ngoài việc chạy. Một lần nữa, kết luận có thể đúng nhưng không tất yếu đúng.

Trung từ phân bổ lệch

Ví dụ: Nhiều tên Phát xít từng là thành viên của câu lạc bộ Kaiser.
Hans từng là thành viên của câu lạc bộ Kaiser.
Do đó, Hans từng là Phát xít.
BÌNH LUẬN: Đây là một ngụy biện vì kết luận đưa ra không phải là tất yếu, không thể chỉ vì Hans từng tham gia một câu lạc bộ có những tên Phát xít mà anh ta cũng là một tên Phát xít. Tình huống này có thể làm cho Hans bị nghi ngờ nhưng nó không cho phép chúng ta tuyên bố như thể nó là một sự thật trong khi chúng ta chỉ có một khả năng.

Khái quát hóa vội vã

Đây là kiểu ngụy biện xảy ra khi người ta sử dụng suy luận quy nạp trong lập luận, trong đó người ta đi đến kết luận tổng quát sau khi khảo sát rất ít trường hợp riêng.

Ví dụ: Sau bảy phiên giao dịch đầu tiên của Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh, thấy rằng giá cổ phiếu của các công ty đã niêm yết liên tục tăng tới mức trần, người ta đi đến khẳng định rằng giá cổ phiếu của tất cả các công ty có niêm yết ở Trung tâm này sẽ luôn luôn tăng đến mức trần.

 

Ví dụ: Người ta chứng minh rằng mọi số tự nhiên đều nhỏ hơn một trăm như sau:

1 nhỏ hơn 100;

2 nhỏ hơn 100;

3 nhỏ hơn 100;

. . .

98 nhỏ hơn 100;

99 nhỏ hơn 100;

1, 2, 3, … , 98, 99 đều là các số tự nhiên;

Vậy mọi số tự nhiên đều nhỏ hơn 100.

Ngụy biện nghĩa vụ chứng minh (burden of proof)

Nếu một người cho rằng X là đúng, thì người đó cần phải chứng minh X là đúng, chứ không phải cứ khăng khăng X là đúng vì không ai chứng minh được X là sai.

Ví dụ:
A: “Các nhà khoa học nghiên cứu ra rằng 80% người làm việc ở Mỹ chán ghét công việc hiện tại của mình.”
B: “Con số 80% từ đâu ra?”
A: “Vậy hãy chứng minh tôi nói sai đi.”

Đáng lẽ A phải là người chứng minh con số 80% chứ không phải chuyển trách nhiệm cho B.

 

Ngụy biện trượt dốc (slippery slope fallacy)

Suy diễn một cách tùy tiện, thiếu căn cứ về một hậu quả trong tương lai, làm trầm trọng hóa vấn đề mà không bàn đến tính logic của luận điểm đã đưa ra.

Ví dụ: Hôm nay bố mẹ mà không cho con đi, con sẽ mất hết bạn bè! Con sẽ bị cô lập! Rồi con sẽ bị ế tới già cho xem!

Tớ không thể cho cậu bánh vì các bạn khác sẽ thấy và cũng xin tớ, như thế tớ sẽ không còn miếng bánh nào để ăn cả!

Ngụy biện tấn công người rơm

Một trong những nguyên nhân là vì chúng ta có những thế giới quan khác nhau, do đó cách ta diễn dịch cùng một câu nói cũng có thể sẽ khác nhau. Cách bạn “mã hoá” thông điệp của mình và cách tôi “giải mã” thông điệp đó sẽ không bao giờ giống nhau được. Nhiều người, do vô tình hay cố ý, đã lợi dụng lỗ hổng này trong giao tiếp để giành chiến thắng bằng cách sử dụng một trong những ngụy biện tinh vi là Ngụy biện người rơm. Người sử dụng ngụy biện này cố tình bóp méo lập luận của đối phương, biến nó thành một lập luận yếu đuối để sau đó dễ dàng “xử lý” và tuyên bố trong vui sướng rằng lập luận của gã đối thủ kia đã bị đánh bại.

Ngụy biện người rơm có thể có nhiều hình thức khác nhau và có thể bao gồm:

  • Trích dẫn lời của đối thủ ra khỏi ngữ cảnh (tức là chọn những từ ngữ diễn đạt sai ý định của họ)
  • Phóng đại hoặc đơn giản hóa quá mức lập luận của đối thủ và sau đó tấn công phiên bản bóp méo này
  • Bịa đặt những tuyên bố mà đối thủ chưa bao giờ thực sự đưa ra
  • Thay đổi những chi tiết nhỏ nhưng quan trọng trong lập luận ban đầu của đối thủ

Bất kể hình thức nào, ngụy biện người rơm đều có chung cấu trúc sau:

  • Người A nêu quan điểm X.
  • Người B mô tả vị trí Y, một phiên bản méo mó của vị trí X.
  • Người B phản đối Y thay vì X, tuyên bố rằng lập trường ban đầu X đã bị bác bỏ.

Ví dụ:

A: Tôi nghĩ nên để cho giới trẻ ngày nay nhiều khoảng trống hơn để có thể tự đưa ra những lựa chọn cho bản thân.

B: Tôi không đồng ý với anh. Không thể để lũ trẻ muốn làm gì thì làm được. Chúng sẽ mau chóng hư hỏng.

Lập luận của người B bóp méo lập luận của người A và biến nó thành một lập luận sai lầm. Tất nhiên chúng ta không thể để lũ trẻ thích làm gì thì làm, nhưng đó đâu phải là lập luận của người A.

Mục tiêu đầu tiên của chúng ta khi sử dụng Ngụy biện người rơm là bóp méo các phát biểu của đối thủ. Để làm được điều này, chúng ta có thể phóng đại hoá phát biểu của đối thủ đến mức cực đoan vì những phát biểu cực đoan cực kỳ dễ phản bác. Chẳng hạn:

A: Nạn tắc đường thường xuyên xảy ra do lượng xe máy lưu thông ngày càng nhiều. Để giải quyết vấn nạn này, chúng ta phải hạn chế xe máy.

B: Không còn xe máy thì xây đường xá để làm gì.

Ở đây người A đưa ra một phát biểu về hạn chế xe. Người B cực đoan hoá phát biểu của người A bằng cách diễn giải lại phát biểu này trở thành không còn chiếc xe máy nào.

Ngụy biện Người rơm là một “đường binh” rất khôn ngoan. Bằng cách tạo ra một người rơm (lập luận cực đoạn bóp méo lập luận của đối thủ), chúng ta có thể dễ dàng đánh bẹp người rơm này. Trong tình huống xấu nhất, nếu đối thủ phát hiện ra bạn sử dụng ngụy biện này, người phạm ngụy biện sẽ tuyên bố rằng mình đã “vô tình” hiểu sai ý của người kia chứ không cố tình bóp méo nó và do đó bảo toàn hình ảnh của mình để tiếp tục cuộc tranh luận.

Ví dụ:
Người A: Tôi nghĩ chúng ta nên tăng thuế để tài trợ cho chương trình mới này.

Người B: Được rồi, vậy bạn chỉ muốn buộc mọi người phải bỏ tất cả số tiền khó khăn mới kiếm được của họ để xây dựng bất cứ thứ gì mà bất cứ ai muốn?

Ví dụ:
A: “Chúng ta nên nuôi một con chó, không phải một con mèo.”
B: “Tại sao bạn ghét mèo?”

Ví dụ này nó đã được đơn giản hóa đi, nhưng bạn có thể thấy B đã bẻ cong lời nói của A. Thay vì hỏi xem lí do là gì, Blại tranh luận như thể A nói “Tôi ghét mèo.” Lập luận giả (“Tôi ghét mèo”) là một người rơm.

Ngụy biện lập lờ

A do đó B. B do đó C. A do đó C. Tuy nhiên, B lại hiểu ra 2 nghĩa khác nhau.

Ví dụ:

Các cổ động viên (Fans) gây ra rất nhiều tiếng ồn.
Bà Butterfly đang sử dụng cây quạt (Fan) Của mình.
Do đó, bà ấy đang gây ra nhiều tiếng ồn.
Lập luận sau đây là một lối nói lập lờ khá tinh vi:
Yêu thương đồng loại là dấu hiệu của lòng vị tha.
Sở Khanh là một người tình vĩ đại.
Theo đó, gã này là một người giàu lòng vị tha.
BÌNH LUẬN: Vấn đề ở đây là “yêu” là từ tối nghĩa tiềm ẩn, mang tính đa nghĩa. Tiền đề chính mang đến một hiểu biết hợp lý và có thể chấp nhận được. Nó nêu lên định nghĩa kinh điển về tình yêu như là sự sẵn sàng dành điều tốt đẹp cho người khác. Mặt khác, tiền đề phụ lại mang đến một hiểu biết phổ biến, thậm chí là thô tục về tình yêu. Khi chúng ta nói rằng Sở Khanh là một người tình vĩ đại, ý chúng ta là thực tế gã là kẻ hay tán tỉnh, hoàn toàn khác so với người giàu lòng vị tha.
Kết luận rút ra không đúng vì tình yêu của Sở Khanh không cùng loại với tình yêu ngang hàng với lòng vị tha. Sở Khanh và lòng vị tha không có mối liên kết nào vì không có trung từ tạo liên kết. Nếu các tiền đề mang đúng ý nghĩa thực sự của chúng, ý nghĩa không bị che đậy bởi lối nói lập lờ thì chúng ta không có kết luận nào đúng đắn cả.
Yêu thương đồng loại là dấu hiệu của lòng vị tha
Sở Khanh là kẻ hay tán tỉnh.
Rõ ràng không thể kết luận được gì từ đây. Ngôn từ sử dụng trong lối nói lập lờ dù vô tình hay cố ý đều có thể tạo ra hoặc thường xuyên tạo ra rất nhiều nghĩa. Nếu bạn định tranh luận bảo vệ một quan điểm về sự công bằng, hãy chắc chắn mình bắt đầu từ một định nghĩa chính xác của từ “sự công bằng” và sau đó kiên trì bám theo định nghĩa đó xuyên suốt lập luận.

Ngụy biện cắt xét thông tin ngoài ngữ cảnh (fallacy of quoting out of context)

Khi ai đó đăng, trích dẫn lại một thông tin (ví dụ một phát ngôn, nhận xét, dữ liệu nào đó) ở dạng cắt xén, hay trích rút phát biểu ấy ra ngoài ngữ cảnh gốc, để lái vấn đề sang hướng khác, gây cho người đọc thứ ba hiểu nhầm

 

 

 

Ngụy biện so sánh ẩu (faulty analogy)

So sánh hai điều chỉ giống như ở một khía cạnh nhỏ chứ không thật sự tương đồng để có thể mang ra so sánh.
Ví dụ:
“Những người mà không thể không uống cà phê sáng cũng chẳng khác gì những kẻ nghiện rượu.”

Ngụy biện cá trích đỏ (Red Herring Fallacy)

Ngụy biện cá trích đỏ (Red Herring Fallacy) là một nỗ lực chuyển hướng cuộc trò chuyện ra khỏi chủ đề ban đầu. Cá trích đỏ được sử dụng bằng cách đưa ra một thông tin không liên quan làm mất tập trung người đọc hoặc người nghe. Điều này có thể là cố ý hoặc vô ý. Kết quả là, người ta có thể chuyển hướng sự chú ý của người khác khỏi chủ đề thảo luận ban đầu hoặc tránh trả lời một câu hỏi khó.

Ví dụ:
A: “Tại sao bạn lại không tiết kiệm được tiền mỗi tháng?”

B: “Thực ra, bạn có biết rằng thế giới đang đối mặt với biến đổi khí hậu không? Đó mới là vấn đề quan trọng mà chúng ta cần tập trung vào.”

Ví dụ:

A: “Tại sao bạn lại không hoàn thành công việc đúng hạn?”

B: “Chúng ta thực sự cần phải suy nghĩ về cách mà công nghệ đang thay đổi công việc và cách mà nó ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta. Điều này thật sự quan trọng hơn là việc hoàn thành công việc.”

 

Các chính trị gia thường sử dụng ngụy biện đánh lạc hướng để có lợi cho mình: bằng cách khéo léo bỏ qua trọng tâm, họ hướng sự chú ý khỏi lập luận hoặc câu hỏi.

Ví dụ:

Phóng viên: “Gần đây, có nhiều vấn đề tham nhũng trong chính quyền địa phương. Ông định chống tham nhũng như thế nào?”

Ứng cử viên: “Tôi có một kế hoạch vững chắc để chống tham nhũng, và tôi cũng có một kế hoạch mười điểm để tạo ra nhiều việc làm hơn. Điều chúng ta cần là tăng trưởng kinh tế, vì vậy điểm đầu tiên trong kế hoạch việc làm mười điểm của tôi là …”

Ví dụ:
Một cảnh sát chặn một chiếc xe vì chạy quá tốc độ. Người lái xe phàn nàn, nói rằng họ không nên nộp phạt vì có rất nhiều tội phạm nguy hiểm ngoài kia và cảnh sát nên truy đuổi chúng.

Hai sai thành đúng (Two wrongs make a right)

Lỗi ngụy biện này sử dụng khi người trao đổi thay vì bàn về cái sai của sự việc đang xét, lại đưa ra một sự vật sai tương tự để biện hộ, hay giảm nhẹ, hay làm lạc hướng cho cái sai của nó.

ví dụ :
A: Nước ta tham nhũng ghê quá
B: Nước nào mà không có tham nhũng

 

Ngụy biện kết luận ẩu (jumping to conclusions)

Trong đó người phát biểu dù không đủ chứng cứ, lý luận hay bằng chứng vẫn phát biểu những luận điểm vội vã, thiếu logic, thiếu thuyết phục.

Ví dụ: Sau khi hàng loạt cá chết bất thường tại vũng áng, lời ông phó chủ tịch hà tĩnh đại ý rằng: “vẫn yên tâm ăn cá, tắm biển ở vũng áng”

Ngụy biện đen trắng (black-or-white fallacy)

Ngụy biện này là kiểu lý luận triệt buộc, bắt người đối thoại phải chọn một trong hai lựa chọn mà kẻ ngụy biện cho là duy nhất, trong khi thực tế còn các lựa chọn khác có thể dùng đến.

Ví dụ : không thể chọn được cả 2, phải chọn hoặc nhà máy, hoặc cá tôm.

Ví dụ trên là lối ngụy biện đen trắng, vì vẫn còn các lựa chọn khác mà người dân, hay chính phủ VN làm được trong trường hợp này, như bắt buộc nhà máy này sử dụng công nghệ thân thiện môi trường, trong tiêu chuẩn an toàn và kiểm soát chặt chẽ từ phía VN.

 

 

Ngụy biện hai sai thành một đúng (Two wrongs make a right)

Người thực hiện nguỵ biện hai sai thành một đúng đưa ra lập luận bao biện cho một hành động sai trái bằng cách chỉ ra những hành động khác cũng sai trái không kém. Đây là một loạt các ví dụ chúng ta có thể gặp trong đời sống hàng ngày.

Ví dụ 1

A: Sao lại đi học muộn thế, giờ bắt đầu là nửa tiếng trước cơ mà.

B:Có sao đâu? Mọi người đều như trễ cả mà?

Ví dụ 2

Tại sao lại bắt tôi hả anh cảnh sát? Ai cũng vượt đèn đỏ hết mà?

Đây là lỗi tư duy logic phổ biến mà hầu hết chúng ta đều từng mắc phải. Tuy nhiên, chân lý vẫn là chân lý. Cho dù những ngụy biện của bạn có vẻ hợp lý đến đâu cũng không thể nào dùng để bào chữa cho những hành vi sai trái. Chính vì thế, trước khi đánh đồng một lỗi sai phổ biến để trở thành lời ngụy biện cho chính mình, người đọc hãy suy nghĩ thật kỹ để tránh mắc lỗi sai trong lối ngụy biện này.

 

Ngụy biện khác

Ngụy biện lợi dụng đám đông (appeal to the people)

Vin vào sự ủng hộ của đám đông để cho rằng luận điểm anh ta là đúng.

Ví dụ: 1400 tỷ để xây dựng tượng đài nhằm đáp ứng nguyện vọng và tình cảm của đồng bào và người dân đối với bác

Ngụy biện vin vào truyền thống (appeal to the tradition)

Đưa ra lý lẽ rằng trước giờ ai cũng làm vậy hoặc đều tin điều đó là đúng, nên điều đó đúng.

A: “Chúng ta nên đổi mới quy trình sản xuất và áp dụng công nghệ để tăng mạnh hiệu suất của nhà máy.”
B: “Mặc kệ đi, đã mấy chục năm rồi cũng có sao đâu, cần gì thay đổi cho mệt!”

Ngụy biện chế giễu (appeal to ridicule)

Ngụy biện khi giễu cợt lời người trao đổi là nhảm nhí, là tầm bậy để hạ thấp giá trị các lời nói đó.

Ví dụ: Con lạy các ông, các ông phán như thánh.

Ngụy biện chọc tức (needling fallacy)

Ngụy biện “chọc tức, đâm thọt” (needling fallacy): là ngụy biện dùng lời nói bất lịch sự, bề trên không liên quan câu chuyện để làm đối thủ tức giận.

Ví dụ: anh không đồng ý thì đi ra nước ngoài mà sống

 

Ngụy biện công kích cá nhân (Personal Attack/Ad Hominem)

Đây là nguỵ biên xuất hiện khi người nói chỉ tập trung vào việc tấn công vào người đang cùng tranh luận mà không cân nhắc nội dung tranh luận của người đó.

Tấn công cá nhân: tấn công, sỉ nhục cá nhân người trao đổi (vốn không liên quan chủ đề đang tranh luận) để hạ thấp giá trị bản thân họ, lời nói của họ. Ở đây cách gọi “thánh”, “ông” là hàm ý chê bai, tấn công cá nhân.

Ví dụ:

A: Nhà hàng này nấu ăn dở quá!
B: Có nấu được như người ta không mà nói?

Ngụy biện công kích động cơ (Attacking the motive)

Nguỵ biện công kích động cơ xuất hiện khi người nói đánh giá một lập luận của một người dựa trên động cơ đưa ra lập luận của người đó, thay vì xem xét giá trị của lập luận.

Ví dụ:
Giáo sư X: Chính phủ cần đầu tư thêm ngân sách cho các dự án khoa học trong nước để có thể thu hút các nhà khoa học trẻ triển vọng quay về cống hiến.
Người ngụy biện: Giáo sư X giữ chức vụ chủ chốt trong Bộ Khoa học, dĩ nhiên ông ta sẽ kêu gọi đầu tư cho khoa học. Do vậy, chúng ta nên bỏ qua lời nói của giáo sư X

Ngụy biện “Anh cũng thế” (Look who’s talking)

Người mắc phải lỗi nguỵ biện này khi cố gắng chối bỏ lí lẽ của một người đưa ra vì lí do anh ta không làm đúng như những gì anh ta nói

Ví dụ:

Bố: Con trai à, đừng hút thuốc nhé, rất có hại cho sức khoẻ đấy!

Con: Ơ, nhưng bố cũng hút mà? Tại sao con phải nghe theo chứ?

Ví dụ khác:

Cựu Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đưa ra các công bố quyết tâm giải quyết tình trạng nóng lên toàn cầu bằng cách cắt giảm lượng khí thải carbon. Tuy nhiên, chỉ sau những tuyên bố đó vài giờ, bà được chứng kiến bước lên một chiếc máy bay riêng 19 chỗ ngồi với khả năng đốt cháy nhiên liệu (347 ga lông mỗi giờ) hơn hẳn các dòng máy bay khác. Có thể thấy điều này đã khiến cho vị chính trị gia bị nhiều người chỉ trích là đạo đức giả.

Ở ví dụ này, người nói không chối bỏ lập luận về việc bảo vệ môi trường của Hillary Clinton mà chỉ chỉ ra hành động được xem là đạo đức giả của bà ta. Vậy, không có lỗi nguỵ biện nào mắc phải ở đây.

Ngụy biện lạm dụng quyền lực (Ad verecundiam)/ (appeal to authority)

Ngụy biện lạm dụng quyền lực chính là lối sai lầm trong tư duy đánh vào xu hướng tâm lý ‘tin theo người nổi tiếng’ của đại đa số chúng ta. Phần đông những người mắc phải lỗi tư duy logic này tin rằng quyền lực được sinh ra để giành được nhiều ưu thế trong tranh luận mà không cần dựa trên lập luận thuyết phục. Cụ thể, từ thời xa xưa cho đến hiện tại vẫn có rất đông những người dùng danh tiếng và uy tín của những người nổi tiếng, được nhiều người ái mộ để tranh thủ sự ủng hộ cho luận điểm của mình.

Ví dụ 1:

Chúng ta nên tin vào Đấng toàn năng vì cả hai nhà vật lí học đại tài Michio Kaku và Albert Einstein đều tin vào điều đấy.

Một biến thể khác của lỗi tư duy logic nguỵ biện lạm dụng quyền lực này là nguỵ biện lạm dụng vị thế/ uy tín cá nhân. Trong sai lầm tư duy này, người nguỵ biện thay vì bàn trực tiếp về vấn đề tranh luận thì lại dựa vào vai vế, tuổi tác, địa vị để nâng mình lên và hạ thấp đối phương. Trong văn hoá của người châu Á nói chung và người Việt Nam nói riêng, hình thức nguỵ biện này rất thông dụng.

Một trong những nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp khiến hình thức nguỵ biện này thấm sâu vào tư duy của đại đa số người dân chính là cách xưng hô trong ngôn ngữ tiếng Việt giao tiếp hằng ngày. Người Việt phân rõ các ngôi thứ và vai vế trong giao tiếp như cha, mẹ, cô, dì, chú, bác và con, cháu để thể hiện rõ cấp bậc trong giao tiếp. Điều này vô hình trung góp phần đẩy các cuộc tranh luận trở thành cuộc chiến về tuổi tác và cấp bậc, nhiều hơn là lí lẽ và sự rạch ròi. Có thể quan sát rất rõ được điều này qua các cuộc hội thoại hằng ngày hoặc thâm chí các bình luận (comment) trên mạng xã hội như ví dụ dưới đây.

Ví dụ 2:

A: Sếp nên xem xét việc sử dụng các thiết bị tối tân hiện nay để đẩy nhanh quy trình sản xuất của xưởng …

B: Tôi là sếp cậu, tôi tự biết làm gì, cần cậu nhắc sao?

Ví dụ 3:

A: Con không nghĩ mẹ thực sự hiểu vấn đề con đang nói.

B: Tao đẻ ra mày nhé, mày không có quyền dạy tao!

Việc giữ gìn những giá trị truyền thống trong cách cư xử với người lớn tuổi hơn là điều cần thiết. Tuy nhiên, việc bảo vệ quan điểm của bản thân là việc làm đúng đắn. Vậy, khi rơi vào tình huống đối phương tranh luận lựa chọn nguỵ biện lạm dụng uy tín/ vị thế của bản thân để giành phần hơn, chúng ta cần phải xử lí như thế nào để tròn đạo lí nhưng vẫn giữ vững lập trường của bản thân?

Lấy trường hợp bên dưới làm ví dụ:

Ví dụ 4

A: Trẻ con bây giờ quá hư hỏng, để chúng vô nề nếp, bố mẹ phải làm như ông bà ta căn dặn “Thương cho roi cho vọt” thì chúng mới nên người!

B: Cháu phản đối cách sử dụng bạo lực trong gia đình, trẻ em ngày nay phải chịu nhiều áp lực từ trường lớp và cả gia đình, chúng ta nên lắng nghe con trẻ nhiều hơn thay vì “thượng cẳng tay hạ cẳng chân” với chúng.

A: Tôi đã đi được hơn nửa đời người rồi, lời tôi nói chắc chắn phải đúng thôi, trẻ như cậu thì không có tư cách gì tranh luận với tôi cả.

B: Thưa bác, cháu hiểu và đánh giá cao những kinh nghiệm của bác truyền lại những cháu vẫn sẽ giữ quan điểm của mình bởi vì mỗi thời mỗi khác, chúng ta không thể mang tư duy thời trước áp đặt cho thời này được …

Cách ứng xử của người A trong ngữ cảnh này có thể được xem là một cách để ứng phó với lối nguỵ biện lạm dụng vị thế/ uy tín cá nhân. Tóm lại, khi tranh luận chúng ta cần giữ bản thân tỉnh táo, phân tích dựa trên vấn đề tranh luận thay vì cuốn bản thân theo lối nguỵ biện của đối phương.

Ngụy biện lạm dụng vị thế/tác phong (appeal to appearance and manner)

Thay vì bàn vào chủ đề thì lại đem vai vế, tuổi tác, kinh nghiệm, …để nâng mình lên và hạ bệ đối phương.
Ví dụ:
A: “Anh ơi tại sao trong vấn đề này ta phải giải quyết bằng cách X mà không làm cách Y cho tiện hơn?”
B: “Anh là sếp của em, em phải nghe anh, em biết gì mà ý kiến.”

Đây là kiểu ngụy biện khá thông dụng, nâng mình lên và hạ người khác xuống

Ngụy biện lòng thương hại (appeal to pity) – ngụy biện gây cảm giác tội lỗi (appeal to shame) – ngụy biện gây cảm giác tội lỗi (appeal to shame) – ngụy biện gièm pha gây chán ghét (appeal to spite)

Dùng các từ ngữ mang tính cảm tính, gây cảm giác thương hại, động lòng trắc ẩn của người đối thoại/độc giả về sự vật có liên quan, từ đó đạt được mục tiêu đó là đẩy vấn đề tranh luận sai lệch như điều anh ta mong muốn, chứ không bàn đến logic vấn đề.

Ví dụ 1: Giáo sư ơi, học kì này mẹ em bệnh nặng, bố em lại đi công tác xa, em đã trải qua một khoảng thời gian rất khó khăn. Có thể cho em qua môn được không ạ?

Ví dụ 2:

A: Cô Lại Thị Kiều Trang quả thật là độc ác, đầu độc chị họ mà lại còn giết oan một mạng người khác…

B:Thôi cô ấy cũng bị tử hình rồi, để người ta yên đi.

Ví dụ 3:

A: Năm Cam đã từng một thời là tên trùm xã hội đen khét tiếng làm khuynh đảo giới tội phạm ở Việt Nam thời bấy giờ. Việc ông ta bị xử tử vì bảy tội trạng khác nhau bao gồm cả giết người và hối lộ trở thành đề tài nóng hổi không chỉ trên mặt báo trong nước mà con ở nước ngoài đấy. Vậy mà hàng xóm xung quanh khu nhà ông ta ở không hề biết sự thật này…

B: Người thì cũng hoá thiên cổ rồi, hay ho gì mà nhắc lại mấy chuyện đó.

Các ví dụ trên minh hoạ cụ thể cho những lối mòn trong tư duy của khá nhiều người, như: “Tôi khổ cực lắm, hãy cho tôi cái tôi muốn” hoặc “Không nên bới móc chuyện người đã khuất, người ta cũng đã đi rồi mà”. Đây chính là lối nguỵ biện tạo cảm giác thương hại bằng cách “kể khổ” với người khác nhằm trục lợi trong tranh luận.

Trong ví dụ thứ hai và thứ ba, người mắc lỗi tư duy logic này chính là nguỵ biện dựa vào tín ngưỡng và niềm tin về mặt tâm linh để gán ghép cảm giác tội lỗi cho người kia và giành phần lợi trong tranh luận về phía mình thay vì nhắc đến vấn đề về tội ác của cô gái hay nhân vật Năm Cam khét tiếng đang được tranh luận. Điều này sẽ cực kì khập khiễng nếu ta đưa Hitler – kẻ độc tài khét tiếng trong lịch sử – lên bàn cân. Cơ bản là việc ông ta đã mất không thể biện minh hay bào chữa cho tội ác diệt chủng ông ta gây ra cho hơn 6 triệu người Do Thái.

Cảm xúc là một nhân tố mạnh mẽ có khả năng xoay chuyển lí trí và óc phán đoán logic của một người. Cha đẻ của cuốn “Đắc nhân tâm” Dale Carnegie đã từng nói: “Khi bạn làm việc với người khác, hãy luôn nhớ rằng bạn không phải đang làm việc với những cỗ máy logic mà là các sinh vật có cảm xúc” (When dealing with people, let us remember that you are not dealing with creatures of logic but creatures of emotions). Chính vì vậy, trong tranh luận, nhiều người lợi dụng cảm xúc để dẫn dụ sự tin tưởng và làm cản trở tư duy hợp lí. Chúng ta cần học cách giữ cái đầu lạnh và hạn chế việc để cảm xúc chi phối quá trình suy nghĩ logic.

Martin Luther King có một câu rất hay: “Một ngày nào đó chúng ta sẽ học được rằng trái tim không thể nào hoàn toàn đúng khi cái đầu hoàn toàn sai” (One day we will learn that the heart can never be totally right when the head is totally wrong).

Tuy nhiên, không phải lúc nào việc thuyết phục bằng cách gợi lên lòng trắc ẩn cũng là nguỵ biện nếu luận điểm dẫn dắt cảm xúc phù hợp với ngữ cảnh và kết luận. Hãy cùng nhìn ví dụ sau đây:

Ví dụ 2: Anh rất yêu em. Anh đội nắng đội gió chờ em trước cửa trường đưa em về.

Ví dụ 3: Anh mua cho em tất cả những gì em muốn. Anh hứa sẽ yêu em và đem lại hạnh phúc cho em cả đời. Em có thể suy xét việc làm bạn gái của anh được không?

Chàng trai trong ví dụ bên trên đưa ra những bằng chứng về những hi sinh anh ta làm nhằm gợi lên sự thương cảm trong cô gái để có thể hướng đến kết luận rằng cô ấy nên “suy xét việc làm bạn gái của anh ta”. Có thể thấy, không có lỗi tư duy logic nào được thực hiện ở đ