Các thuyết Tiến hóa

Gs. Bùi Tấn Anh – Phạm Thị Nga
  1. CÁC QUAN NIỆM TIẾN HÓA TRƯỚC DARWIN
  2. HỌC THUYẾT DARWIN
  3. CÁC BẰNG CHỨNG TIẾN HÓA
    1. Các đặc điểm tương đồng
    2. Phôi sinh học so sánh
    3. Giải phẩu học so sánh
    4. Sự tiến hóa đồng qui
    5. Sự phân bố địa lý của loài
  4. VAI TRÒ CỦA PHÂN LOẠI HỌC

CHƯƠNG II

CÁC THUYẾT TIẾN HÓA

Trong các chương trước chúng ta đã đề cập đến việc tất cả các sinh vật đều được cấu tạo từ các đơn vị cơ bản là tế bào.  Chúng đều có chứa vật liệu di truyền là ADN, đều có các quá trình biến dưỡng, sinh sản…. Nói chung là chúng giống nhau về một số mặt nhất định.  Bên cạnh đó các sinh vật lại có nhiều điểm khác nhau.  Sự đa dạng của sinh vật cho thấy có một quá trình tiến hóa đã và đang xảy ra.  Nói đơn giản, sự tiến hóa là sự thay đổi theo thời gian.  Học thuyết tiến hóa giải thích về mối quan hệ giữa các dạng sinh vật khác nhau trên trái đất.

I.  CÁC QUAN NIỆM TIẾN HÓA TRƯỚC DARWIN

Các nhà triết học cổ Hy lạp đã cố gắng giải thích tính đa dạng của sinh vật trên trái đất.  Ðáng lưu ý nhất là Aristote (384-322 trước công nguyên).  Ông cho rằng tất cả các sinh vật giống như một chuỗi hình dạng, mỗi hình dạng tượng trưng cho một mắt xích đi từ ít hoàn chỉnh đến hoàn chỉnh nhất.  Ông gọi chuỗi đó là nấc của tạo hóa (scale of nature).  Theo quan điểm này, các loài là cố định và không có sự tiến hóa.

Những thành kiến chống lại sự tiến hóa đã được củng cố trong nền văn hóa Cơ đốc giáo bởi Kinh Cựu ước về đấng sáng tạo.  Những giáo điều về việc các loài được Chúa tạo ra và bất biến đã ăn sâu vào các quan niệm phương Tây thời bấy giờ.  Ngay cả khi học thuyết Darwin xuất hiện, ở Châu Âu và Châu Mỹ vẫn nổi lên thuyết tự nhiên thần luận (natural theology), một thuyết tìm cách khám phá chương trình của đấng sáng tạo bằng cách nghiên cứu tự nhiên.  Các nhà tự nhiên thần luận thấy rằng sự thích nghi của sinh vật là bằng chứng cho thấy đấng sáng tạo đã tạo ra mỗi loài theo một mục đích riêng.  Mục tiêu chính của tự nhiên thần luận là sắp xếp các loài để phát hiện ra các bước trong bậc thang của sự sống mà Chúa đã sáng tạo ra.

Ðến thế kỷ XVIII, Carolus Linnaeus (1707-1778) là người đã sáng lập ra cách phân loại hiện đại cùng cách mô tả mỗi loài và là người đề xuất ra cách đặt tên đôi cho mỗi sinh vật.  Dùng tên loài là đơn vị phân loại Linnaeus đã tìm kiếm mối quan hệ tự nhiên và sắp xếp các dạng sinh vật theo các mức phân loại khác nhau: loài, giống, họ, bô, lớpü.  Sự đóng góp của ông về phân loại cho thấy các loài có quan hệ với nhau nhưng ông vẫn giữ quan niệm như một nhà tự nhiên thần luận cho rằng chúa đã sáng tạo ra tất cả các dạng sinh vật và chúng không thay đổi.

Buffon (1707-1788) một nhà tự nhiên học người Pháp đã lưu ý rằng các hóa thạch cổ ít giống với các dạng hiện nay hơn các hóa thạch mới.  Ông đề xuất hai nguyên lý.  Một là những thay đổi của môi trường đã tạo ra những thay đổi của sinh vật.  Hai là những nhóm loài giống nhau phải có cùng một tổ tiên.  Buffon cũng cho rằng mỗi loài không bất biến mà có thể thay đổi.

Vào cuối thế kỷ XVIII, nhiều nhà tự nhiên học cho rằng lịch sử tiến hóa của sinh vật gắn liền với lịch sử tiến hóa của trái đất.  Tuy nhiên chỉ có Jean Baptiste Lamarck (1744-1829) là người đã phát triển một học thuyết tương đối hoàn chỉnh về sự tiến hóa của sinh vật.  Ông thu thập và phân loại các động vật không xương sống tại Viện Bảo tàng Lịch sử tự nhiên ở Paris.  Bằng cách so sánh những loài còn sống với các dạng hóa thạch, Lamarck thấy rằng có sự biến đổi theo trình tự thời gian từ các hóa thạch cổ đến các hóa thạch trẻ hơn dẫn đến các loài hiện tại (các dạng phức tạp hơn xuất phát từ các dạng đơn giản). Lamarck công bố học thuyết tiến hóa của ông vào năm 1809: không còn nghi ngờ gì nữa, tạo hóa tạo ra mọi vật từng tí một và nối tiếp nhau trong thời gian vô hạn định.

Giống như Aristote, Lamarck cũng sắp xếp các sinh vật thành các bậc thang, mỗi bậc gồm các dạng giống nhau.  Ở dưới cùng là những sinh vật hiển vi mà ông tin rằng chúng được tạo ra liên tục bằng cách tự sinh từ các vật liệu vô cơ.  Ở trên cùng của bậc thang tiến hóa là các động vật và thực vật phức tạp nhất.  Sự tiến hóa phát sinh do xu hướng nội tại vươn tới sự hoàn thiện.  Khi một sinh vật hoàn thiện, chúng thích nghi ngày càng tốt hơn với môi trường sống.

Lamarck cũng đã đưa ra cơ chế để giải thích làm thế nào sự thích nghi xảy ra.  Chúng hợp thành từ hai quan niệm phổ biến vào thời Lamarck.  Thứ nhất là việc sử dụng và không sử dụng, là quan niệm cho rằng những phần nào của cơ thể được sử dụng thường xuyên sẽ trở nên lớn hơn và mạnh hơn, trong khi những phần không được sử dụng sẽ bị thoái hoá.  Thứ hai là quan niệm về sự di truyền các tính trạng tập nhiễm (inheritance of acquired characteristics).  Theo quan niệm nầy, những biến đổi mà sinh vật thu nhận được trong suốt đời sống của chúng có thể di truyền được cho thế hệ sau.  Thí dụ kinh điển là sự tiến hóa chiều dài cổ của hưu cao cổ.  Theo quan điểm của Lamarck, tổ tiên của loài hươu nầy có cổ ngắn, có xu hướng vươn dài cổ ra để có thể chạm đến những tán lá cây là nguồn thức ăn chính của chúng.  Sự thường xuyên vươn dài cổ nầy làm cho con cháu của chúng có cổ dài hơn.  Vì các cá thể nầy có cổ vươn dài nên thế hệ kế tiếp sẽ có cổ dài hơn.  Cứ tiếp tục như thế, mỗi thế hệ có cổ hơi dài hơn thế hệ trước đó.

Những quan niệm của Lamarck về nguyên nhân tiến hóa có thể tóm tắt như sau:

1.      Một tính trạng có thể thu nhận được thông qua việc sử dụng thường xuyên, và có thể mất đi khi không được sử dụng.

2.      Một tính trạng tập nhiễm (tính trạng thu được do thường xuyên sử dụng) có thể di truyền từ thế hệ nầy sang thế hệ khác.  Sự mất đi một tính trạng cũng vậy.

3.      Trong quá trình tiến hóa, các dạng sinh vật phát triển theo hướng ngày càng phức tạp.

4.      Một lực siêu hình trong tự nhiên luôn luôn thúc đẩy quá trình tiến hóa hướng tới sự hoàn thiện.

 

Về cơ bản, quan niệm tiến hóa của Lamarck là đúng nhưng ông thường không  được nhớ đến vì những sự kiện tiến hóa không được chứng minh đầy đủ.  Nhiều thí nghiệm cho thấy các tính trạng tập nhiễm không thể di truyền được.  Chỉ những thay đổi trong cấu trúc di truyền của các tế bào sinh dục mới có thể truyền từ bố mẹ đến con cái.

II.  HỌC THUYẾT DARWIN 

Xin bấm vào đây để đọc tiểu sử của Darwin

Năm 1859, Charles Darwin (1809-1882) một nhà tự nhiên học người Anh đã đưa ra một học thuyết toàn diện về nguồn gốc của loài do chọn lọc tự nhiên.  Theo học thuyết nầy tất cả các sinh vật đa dạng ngày nay là kết quả của một lịch sử tiến hóa lâu dài.  Tất cả các sinh vật thường xuyên thay đổi và những thay đổi nầy của mỗi loài giúp cho chúng thích nghi với môi trường sống.  Một hệ quả quan trọng của học thuyết nầy là không cần phải giả định về một lực siêu tự nhiên đã sáng tạo ra các sinh vật đa dạng trên trái đất.  Một trong các đặc tính chung của sinh vật là khả năng biến dị di truyền.  Những biến dị nầy cung cấp nguyên liệu cho sự tiến hóa.

Học thuyết tiến hóa bằng chọn lọc tự nhiên của Darwin bao gồm ba sự kiện và hai kết luận.  Sự kiện thứ nhất là khả năng sinh sản to lớn trong tự nhiên.  Thí dụ: một con cá hồi đẻ từ 3 đến 5 triệu trứng, một con sò đẻ 60 triệu trứng.  Thậm chí voi là một động vật sinh đẻ chậm cũng có khả năng sinh sản khổng lồ.  Darwin đã nêu rõ:

Voi là một động vật sinh sản chậm nhất trong tất cả các động vật đã biết, và tôi đã gặp khó khăn để ước lượng tỉ lệ gia tăng tự nhiên thấp nhất của nó; an toàn nhất là giả định rằng nó bắt đầu sinh sản khi 30 tuổi và tiếp tục sinh sản đến 90 tuổi; nếu như thế, sau một thời kỳ từ 740 đến 750 năm, sẽ có khoảng 19 triệu voi con cháu của cặp ban đầu nầy.  Sau khoảng 1200 năm, quần thể voi giả thiết nầy có thể vai kề vai, nối đuôi nhau bao phủ toàn bộ bề mặt trái đất.

Nguyên sinh vật Paramecium sinh sản với tốc độ ba lần phân chia mỗi ngày, nếu có đủ thức ăn và các cá thể con sinh ra đều sống sót thì chỉ trong vòng 5 năm sẽ tạo ra một khối lượng gấp 10 lần khối lượng của trái đất.  Từ nhiều quan sát, Darwin đã kết luận rằng mỗi sinh vật có khuynh hướng sinh ra nhiều cá thể con hơn là nhu cầu để thay thế cho số cá thể bố mẹ.

Sự kiện thứ hai là mặc dù số lượng cá thể của mỗi loài có xu hướng gia tăng theo cấp số nhân, số lượng cá thể của loài được duy trì tương đối ổn định.  Ở nhiều loài, có sự tăng và giảm số lượng cá thể có chu kỳ liên quan đến các mùa trong năm, thức ăn, mật độ của quần thể thú ăn thịt và con mồi…  nhưng nói chung số lượng của mỗi loài vẫn duy trì ổn định.

Từ hai sự kiện trên đã đưa đến một kết luận mà Darwin gọi là đấu tranh sinh tồn (struggle for existence) bao gồm không chỉ sự sống sót của cá thể mà cả của loài.  Như vậy, có một sự đấu tranh để sinh tồn giữa hàng triệu cá thể con được sinh ra từ một loài cá (giữa cá lớn và cá bé cùng loài) và giữa các loài cá khác nhau sống trong cùng một vùng cư trú.

Sự kiện thứ ba liên quan đến những biến dị cá thể xảy ra trong loài.  Thật vậy, có vô số biến dị giữa các cá thể trong cùng một loài.  Mặc dù thoạt nhìn thì tất cả các con bò trong một đàn đều giống nhau, nhưng nếu quan sát kỹ sẽ có thể nhận thấy những biến dị cá thể về hình dạng, kích thước, màu lông, nết na…

Từ sự kiện nầy, Darwin đã đưa ra một kết luận thứ hai quan trọng hơn: sự sống sót của các dạng thích nghi nhất dưới tác dụng của chọn lọc tự nhiên.  Trong các cá thể biến dị của một quần thể, những cá thể nào có các tính trạng thích nghi nhất với môi trường sẽ có nhiều cơ hội sống sót và sinh sản, con cái cũng mang những đặc điểm biến dị đó.

Ngoài ra Darwin còn cho rằng: tất cả các động vật tương tự nhau phải tiến hóa từ một tổ tiên chung và tất cả các sinh vật phải tiến hóa từ một vài hoặc một tổ tiên chung đã sống cách đây nhiều triệu năm.

Tóm lại học thuyết tiến hóa của Darwin về chọn lọc tự nhiên dựa trên các giả định sau đây:

1.      Số lượng cá thể sinh ra trong mỗi thế hệ nhiều hơn số cá thể được sống sót và sinh sản.

2.      Có sự biến dị trong các cá thể làm cho chúng không hoàn toàn giống nhau về tất cả các đặc tính.

3.      Trong đấu tranh sinh tồn, những cá thể mang các tính trạng có lợi sẽ có nhiều cơ hội sống sót và sinh sản hơn là các cá thể mang các tính trạng không có lợi.

4.      Một số đặc điểm kết quả của sự sống sót và sinh sản có thể di truyền.

5.      Tất cả các loài sinh vật đều tiến hoá từ một vài tổ tiên chung.

6.      Cần có một thời gian rất lớn để cho sự tiến hóa xảy ra.

III.  CÁC BẰNG CHỨNG TIẾN HÓA

1.  Các đặc điểm tương đồng

Một trong những căn cứ của học thuyết tiến hóa là tất cả các dạng động vật và thực vật ngày nay đều tiến hóa từ một số tổ tiên chung.  Sự sống được cho rằng xuất hiện một cách ngẫu nhiên trên hành tinh nầy dưới những điều kiện lý hóa  đặc biệt trong giai đoạn đầu của sự thành lập trái đất.  Từ những nguyên sinh vật đầu tiên, tất cả các dạng sinh vật từ từ tiến hóa dưới tác động của chọn lọc tự nhiên.  Như vậy, các quá trình sống cơ bản như sự phóng thích năng lượng, sự tổng hợp ATP, sự vận chuyển thông tin di truyền…  sẽ phải giống nhau trong tất cả các sinh vật.  Thí dụ trong sự hô hấp tế bào, các cytochrom tham gia vào sự dẫn truyền điện tử.  Từ các nguyên sinh động vật cho đến cá voi, từ các tảo đơn bào cho đến  cây Sequoia (xồi) khổng lồ chúng ta đều tìm thấy các cytochrom tham gia trong sự dẫn truyền điện tử.  Trình tự các acid amin của phân tử cytochrom c từ nấm men cho đến con người dặc biệt giống nhau.

Một thí dụ khác hổ trợ cho quan điểm về tổ tiên chung của tất cả các sinh vật là cơ sở hóa học của sự truyền thông tin.  Như chúng ta đã biết trong chương 8, ADN được xem là chất mang thông tin di truyền trong tất cả các sinh vật trên trái đất.  Hơn nữa, thông tin di truyền trong ADN được phiên mã thành ARN và sau đó được giải mã thành trình tự của các acid amin trong phân tử protein.  Mã di truyền mã hóa cho các acid amin trong dây peptid giống nhau  trong tất cả các sinh vật.  Các enzim tham gia vào chuyển các thông tin này cũng tương tự nhau ở tất cá sinh vật.  Sự tương đồng trong quá trình truyền thông tin di truyền ở tất cả các sinh vật chứng tỏ chúng có cùng một tổ tiên chung.

Ở nhóm chân hạch, ADN luôn luôn kết hợp với các protein histon thành lập một cấu trúc gọi là thể nhân.  Trình tự acid amin của các histon ở tất cả các động vật và thực vật cũng giống nhau hoặc gần giống nhau.  Sự giống nhau này cũng chỉ được giải thích tốt nhất bằng cách giả định rằng tất cả các động vật và thực vật có cùng một tổ tiên chung.

2. Phôi sinh học so sánh

 

Giai đoạn sớm

 

 

Giai đoạn giữa

 

 

 

 

Giai đoạn cuối

 

 

Cá         Lưỡng thê    Bò sát           Chim         Thú         Người

Hình 1.  Các giai đoạn phát triển phôi của các lớp động vật có xương sống

Các giai đoạn phát triển đầu tiên của một sinh vật thường phản ảnh quá khứ tiến hóa của nó.  Thí dụ động vật có xương sống theo mức độ tiến hóa, từ cá không hàm đến cá xương, lưỡng thê, bò sát, chim và thú.  Các nhóm nguyên thủy được xem là tổ tiên của các nhóm tiến bộ hơn.  Quan điểm này được duy trì mặc dù cá là những động vật sống ở nước, có vây bơi và mang, trong khi bò sát trưởng thành, chim và hữ nhũ không có mang, hô hấp bằng phổi và thích nghi cao độ với đời sống ở cạn.  Khi chúng ta so sánh các giai đoạn phát triển phôi của cá và của những động vật có xương sống bậc cao hơn, mối quan hệ giữa chúng trở nên rất rõ ràng (Hình 1).

Phôi của tất cả các nhóm động vật có xương sống từ cá đến hữu nhũ đều có khe mang nhưng chỉ ở cá các khe mang mới phát triển thành mang.  Như vậy tại sao phôi của bò sát, chim và thú cũng có khe mang nhưng không phát triển thành mang? Ernst Heackel (1834-1919) đã cho rằng các giai đoạn phát triển phôi của những sinh vật tiến hóa hơn rút ngắn một số đặc điểm hình thái của tổ tiên chúng.  Do đó phôi chim có khe mang vì tổ tiên của chim là một nhóm cá cổ.  Tuy nhiên điều này không ám chỉ rằng tất cả các đặc điểm phát triển phôi đều có thể được xem là một sự rút ngắn các đặc điểm của tổ tiên.  Chẳng hạn phôi của bò sát, chim và thú đều phát triển các màng ối, túi niệu và màng đệm là những cấu trúc tiến hóa mới quan trọng cho sự sống của phôi trên cạn.

3.  Giải phẩu học so sánh

Chúng ta hãy khảo sát cánh chim, chi trước của ếch, tay người, cánh dơi và vây ức của cá voi (Hình 2).

Chim                          Dơi

Cá voi                 Ếch                   Cá                         Người     Ngựa

Hình 2.  Bộ xương chi trước của một số động vật có xương sống

Chúng khác biệt rất lớn về hình thái và mỗi cơ quan này thích nghi cao độ với một phương thức sống.  Tuy nhiên, những nghiên cứu về cấu trúc và sự phát triển của những cơ quan nầy cho thấy rằng chúng đều phát triển từ cùng một cơ quan sơ khai ban đầu, có cùng mối liên hệ với cơ thể và có sự tương tự về cấu tạo xương và cơ mặc dù chúng có chức năng khác biệt nhau.  Các cơ quan nầy được choi là tương đồng (homologous) với nhau.  Chi trước của tất cả các động vật bốn chân đều có xương cánh tay, xương tay trụ và tay quay, xương cổ tay, xương bàn tay và xương ngón tay.  Xương cổ, xương bàn và xương ngón tay ở những động vật này cũng tương tự nhau mặc dù mức độ phát triển của xương có thay đổi theo loài.

Có rất nhiều thí dụ về các cấu trúc tương đồng thực hiện những chức năng khác nhau.  Chẳng hạn qua phân tích sự phát triển của xương đe (incus) và xương búa (malleus) là hai trong số ba xương tai ở thú cho thấy chúng là các cấu trúc tương đồng với xương vuông (quadrate) và xương khớp (articular) của bò sát.  Ở một nhóm bò sát cổ đã tuyệt chủng, những xương này nhỏ và giúp hàm dưới khớp với xương sọ, nhưng ở các bò sát khác, ở lưỡng thê và cá xương thì chúng lại dài hơn.  Ở cá xương, những xương này khớp với xương hàm dưới với sọ và được xem là tương đồng với các thành phần xương hàm ở cá mập.  Rõ ràng là các thành phần xương của hàm cá mập là dạng tiến hóa từ các thành phần xương của cung mang ở cá không hàm.

4.  Sự tiến hóa đồng qui

Khi những sinh vật không có quan hệ thích nghi với cùng nơi cư trú và cùng cách sống, chúng thường có những đặc điểm về hình thái giống nhau mặc dù cấu trúc bên trong của chúng có thể khác nhau.  Trường hợp này được gọi là sự đồng qui tiến hóa (ecolutionary convergence).  Thí dụ vây ức của cá xương và cá voi trông giống nhau nhưng chúng có cấu trúc rất khác nhau.  Ở cá xương, vây được nâng đở bởi các tia vây, trong khi ở cá voi vây được nâng đở bởi các xương ngón.  Về mặt phát triển tia vây hoàn toàn khác với xương ngón, do đó vây của hai nhóm chỉ giống nhau ở bề ngoài.  Tương tự, cánh của dơi và cánh của chim có hình thái và chức năng giống nhau nhưng lại khác biệt về cấu trúc bên trong.  Rắn và thằn lằn không chi (limbless lizard)  thích nghi với đời sống trong hang nên các chi bị thoái hóa.  Cá xương và cá voi đều có hình dạng cơ thể giúp chúng thích nghi tốt bơi lội.  Những thí dụ về sự tiến hóa đồng qui cho thấy hình thái của sinh vật có thể thay đổi qua các thế hệ.

5.  Sự phân bố địa lý của loài

 

Hình 3.  Các vùng phân bố địa lý trên thế giới

và một số loài thú tiêu biểu của mỗi  vùng

Sự phân bố địa lý của sinh vật hiện tại cũng là những bằng chứng về sự tiến hóa.  Chẳng hạn ở những hải đảo khác nhau trên thế giới người ta phát hiện ra những loài thực vật và động vật đặc hữu (những loài chỉ có ở một vùng nhất định, không tìm thấy ở bất kỳ nơi nào khác).  Ngay cả ởÍ những nơi đất đai và khí hậu rất giống nhau có các loài khác nhau.  Tại sao chỉ ở  châu Uïc có các loài thú túi và thú đơn huyệt (hữu nhũ đẻ trứng)? Tại sao 13 loài chim sẽ do Darwin phát hiện chỉ có ở quần đảo Galapagos?

Cách giải thích hợp lý duy nhất cho sự phân bố địa lý của những sinh vật nầy là một vài cá thể là tổ tiên của quần thể hiện nay của những vùng đó.  Theo thời gian chúng tiến hóa như chúng ta thấy hiện nay.

Sự phân bố địa lý của thú tuí là một trường hợp điển hình.  Trong quá khứ, thú túi được phân bố khắp nơi trên thế giới (các di tích hóa thạch cho thấy điều đó).  Tuy nhiên hiện nay chúng chỉ có ở châu Uïc và một số đảo lân cận.  Cách giải thích cho sự sống sót và đa dạng của thú túi ở lục địa châu Uïc là do tách Châu Uïc khỏi phần còn lại của Nam bán cầu trước khi có sự xuất hiện của các loài thú hiện nay.  Do không có sự cạnh tranh của các loài thú đẻ con khác ở châu Uïc, nên thú túi ở đó đã tiến hóa thành một số lượng lớn ở nơi cư trú.  Ở những nơi khác trên thế giới thú túi bị tuyệt chủng do các loài thú hiện nay cạnh tranh có hiệu quả hơn.

Sự phân bố địa lý của các động vật cho thấy rằng thế giới có thể được chia thành 5 vùng chính: vùng bắc bán cầu (holarctic) (gần cổ bắc và tân bắc), vùng đông phương (oriental), vùng tân nhiệt đới (neotropical), vùng (Ethiopian) và vùng châu Uïc (Australian).  Mỗi vùng có một khu hệ động vật (fauna) riêng (Hình 3).

Bên cạnh sự xuất hiện và biến mất ngẫu nhiên của các vùng đất nối liền các lục địa, bản thân các lục địa cũng đã trãi qua những thay đổi chính trong vị trí tương đối của chúng qua hàng triệu năm.  Nhiều bằng chứng cho thấy có một lúc chỉ tồn tại một dãi đất rộng lớn, về sau chúng bị vỡ ra thành các lục địa ngày nay và chúng dần dần trôi xa nhau.  Học thuyết về sự trôi dạt lục địa (continetal drift) này giải thích được những điểm tương tự của một số chim không bay chỉ có ở châu Uïc, Nam Mỹ và châu Phi cũng như một số động vật không xương sống, cá nước ngọt và thực vật chỉ có ở lục địa này.

IV. VAI TRÒ CỦA PHÂN LOẠI HỌC

Quan sát, mô tả các sự kiện, hiện tượng là khởi điểm của mọi quá trình nghiên cứu tự nhiên.  Trong lãnh vực nghiên cứu sự sống, người ta cũng bắt đầu bằng  việc dùng các giác quan để quan sát trực tiếp, sau đó quan sát gián tiếp thông qua các công cụ khoa học, từ mô tả theo kinh nghiệm bằng những từ ngữ thông thường tiến lên mô tả có mục đích bằng các thuật ngữ khoa học.  Sự phát triển của các phương pháp quan sát dẫn đến hệ quả tất nhiên là nhu cầu sắp xếp, phân loại các hiện tượng, sự kiện đã thu được.  Vì vậy sinh vật học đã bắt đầu bằng phân loại học.

Thông qua việc mô tả các dạng động vật, thực vật thu thập từ nhiều nơi, vào nhiều lúc khác nhau, các nhà phân loại đã dần dần nhận thức rằng sinh giới vô cùng đa dạng ngày nay phải là kết quả của sự biến đổi về chi tiết từ một số ít dạng ban đầu.  Dựa vào các đặc điểm giống nhau để sắp xếp các dạng sinh vật vào những nhóm phân loại nhỏ, lớn, các nhà phân loại đã tự phát đi tới quan nhiệm rằng các loài trong từng nhóm phân loại phải có quan hệ với nhau về nguồn gốc tự nhiên nghĩa là chúng phát xuất từ một dạng tổ tiên chung.  Như vậy, thông qua chức năng sưu tầm,mô tả, sắp xếp, phân loại học đã tấn công vào quan điểm sinh vật bất biến.

Như đã đề cập ở phần trên, Carolus Linnaeus (1707-1778) là người đề xuất ra cách đặt tên đôi cho mỗi sinh vật.  Mỗi loài có một tên đôi gồm hai từ (tên đôi): từ đầu chỉ giống (luôn luôn viết hoa chữ cái đầu), từ thứ hai chỉ loài (không viết hoa).  Tên loài luôn luôn là tên La Tinh và được in nghiêng.

Thí dụ:  Người    Homo sapiens                     Sư từ       Felis leo

Cách đặt tên này gọn gàng tiện lợi, chấm dứt tình trạng không thống nhất, tạo điều kiện cho các nhà sinh học khắp thế giới dễ dàng trao đổi với nhau, vì vậy kiểu đặt tên này vẫn được dùng cho tới ngày nay.

Linnaeus đã chia hệ thống phân loại thành 5 đơn vị, theo thứ tự từ lớn đến nhỏ  là : lớp, bộ, giống, loài, thứ.  Trong hệ thống phân loại của ông, lớp và bộ chỉ tương đương với họ mà ta quan niệm ngày nay.  Về sau, hai khái niệm họ và ngành đã được thêm vào.

Hệ thống phân loại hiện hành gồm 7 đơn vị, từ nhỏ đến lớn là: loài (species), giống (genus), họ (family), bộ (order), lớp (class), ngành (phylum) và giới (kingdom).

Thí dụ: Giới        Animalia (Ðộng vật)

Ngành      Chordata (Dây sống)

Lớp          Mammalia (Thú)

Bộ            Primata (Linh trưởng)

Họ           Homonidae (Người)

Giống       Homo

Loài         Homo sapiens

 

Nguồn: http://vietsciences.free.fr/giaokhoa/biology/sinhhocdaicuong/chuong31cacthuyettienhoa.htm