Mỹ học đại cương

CHƯƠNG MỞ ĐẦU: ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA MĨ HỌC

I. QUÁ TRÌNH XÁC ĐỊNH ĐỐI TƯỢNG CỦA MĨ HỌC TRONG LỊCH SỬ

Những tư tưởng của mĩ học đã manh nha từ thời cổ đại qua ý kiến của Pythagore (580 – 500 TCN), Héraclite (530 – 470 TCN), của Socrate (469 – 399 TCN), của Platon (472 – 347 TCN), của Aristote (384 – 322 TCN)… về cái đẹp, về hoạt động thẩm mĩ của con người… Nhưng chỉ đến giai đoạn Marx – Lenin, mĩ học mới thực sự trở thành một khoa học, có cơ sở triết học đúng đắn cách mạng nhất, tiêu biểu cho tư tưởng tiên tiến của thời đại. Từ thời xa xưa đến thế kỉ XVIII, mĩ học vẫn chưa trở thành một khoa học độc lập. Nghĩa là, nó chỉ được quan niệm là một bộ phận của triết học, là việc “làm thêm” của triết học. Vị trí của mĩ học vì thế chưa được coi trọng đúng mức. Có thể nói mĩ học với tư cách là một khoa học hình thành khá muộn so với một số các khoa học khác.

Thuật ngữ “mĩ học” (esthétique trong tiếng Pháp, 3cmemuka, trong tiếng Nga) bắt nguồn từ một chữ Hi Lạp cổ aisthetikos, có nghĩa là giác quan, cảm giác, tình cảm.

Trong lịch sử tư tưởng mĩ học của nhân loại, người đầu tiên sử dụng thuật ngữ này là A. Baumgarten (1714 – 1762) – một nhà mĩ học duy tâm người Đức. Vào năm 1735, trong bài Những suy xét về triết học có quan hệ tới việc xây dựng thơ ca, ông đề xuất khái niệm mĩ học. Trong khoảng tám năm từ 1750 đến 1758, Baumgarten cho xuất bản cuốn sách gồm 2 tập (tập I năm 1750, tập II năm 1758) lấy tên là Mĩ HỌC. Từ đó về sau, thuật ngữ mĩ học ngày càng được sử dụng rộng rãi nhưng mỗi người sử dụng nó theo một quan niệm riêng, khác nhau.

Với Baumgarten, thuật ngữ mĩ học gắn liền với một trong những hoạt động nhận thức của con người. Baumgarten chia hoạt động nhận thức của con người thành hai loại : hoạt động nhận thức bậc thấp (sự lĩnh hội cái đẹp) và hoạt động nhận thức bậc cao (sự hướng tới chân lí trong khoa học). Ứng với hai loại nhận thức nói trên là hai khoa học : mĩ học và logic học. Baumgarten đối lập logic học với mĩ học. Theo ông, logic học nghiên cứu quy luật của nhận thức lí tính, dựa vào tư duy và dạy cho con người cách thức nắm bắt chân lí. Ngược lại, mĩ học nghiên cứu quy luật của nhận thức cảm tính, giúp chúng ta nắm được cái đẹp. Ông đề xuất định nghĩa : “Mĩ học là khoa học về cái đẹp”. Baumgarten giới hạn lĩnh vực của cái đẹp là hướng tới tự nhiên. Ông loại trừ nghệ thuật và quy luật của nghệ thuật ra khỏi mĩ học. Nghệ thuật theo Baumgarten nằm ngoài phạm vi chú ý của mĩ học, nằm ngoài đối tượng nghiên cứu của mĩ học.

– Như vậy, đóng góp của Baumgarten là đưa lại một thuật ngữ khoa học ngày càng được sử dụng rộng rãi. Baumgarten đã chính thức khai sinh tên gọi mĩ học. Nhưng ông đã không đúng khi đối lập hai loại nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính, đối lập yếu tố cảm xúc và yếu tố duy lí, đối lập tư duy hình tượng và tư duy logic cho rằng tư duy bằng hình tượng thấp hơn tư duy bằng khái niệm. Mĩ học nhận thức thế giới bằng cảm tính, còn nhận thức thế giới bằng lí tính là nhiệm vụ của các khoa học khác. Ông đem đối lập cái đẹp với chân lí giới hạn đối tượng tìm hiểu của mĩ học trong một phạm vi quá hẹp bằng phạm vi cái đẹp.

Sau Baumgarten các nhà khoa học đã có những quan niệm khác nhau về mĩ học. Cho dù đối tượng nghiên cứu của khoa học này được nhìn nhận trên những phạm vi rộng, hẹp khác nhau nhưng bao giờ nó cũng liên quan tới cái đẹp.

Vào thế kỉ XIX, E.Kant (1724 – 1804) nhà triết học cổ điển Đức quan niệm đối tượng của mĩ học là lĩnh vực của “thị hiếu thẩm mĩ” hoặc lĩnh vực của “sự phán đoán về thị hiếu thẩm mĩ”. Ông quan tâm nghiên cứu phạm trù cái đẹp và cái cao cả. Cái đẹp, theo đánh giá của Kant, mang lại khoái cảm và thoả mãn những đòi hỏi tinh thần có tính chất chủ quan của con người. Nhưng nhà mĩ học này đã phủ nhận tính khách quan của các quy luật thẩm mĩ. Ông tách cái thẩm mĩ ra khỏi các lĩnh vực liên quan (đạo đức, khoa học, chính trị và các lĩnh vực thực tiễn xã hội và gán cho nó màu sắc của cái tôi vốn hết sức chủ quan. Ông nói : “Cái đẹp không phải ở đôi má hồng của người thiếu nữ mà ở đôi mắt của kẻ si tình”. Theo Kant, cái đẹp là cái làm cho ta vui thích mà không phải thông qua một khái niệm nào cả.

Cùng thời với Kant, cũng một nhà triết học cổ điển Đức tên là Hegel (1770 – 1831) khẳng định đối tượng của mĩ học là cái đẹp. Nhưng cái đẹp trong quan niệm của Hegel chủ yếu được nhìn nhận ở nghệ thuật. Hegel không phủ nhận cái đẹp trong cuộc sống nhưng ông xem thường nó, cho nó là không đầy đủ. Hegel khẳng định : “Cái đẹp trong nghệ thuật cao hơn cái đẹp trong tự nhiên”. “Đối tượng của mĩ học là vương quốc rộng lớn của cái đẹp…, và nếu dùng cách, diễn đạt thích hợp nhất với khoa học này, thì đó là triết học về nghệ thuật, hay cụ thể hơn, triết học về cái mĩ thuật”. Ông lí giải : “Nhưng định nghĩa ấy, khi loại bỏ cái đẹp trong tự nhiên ra khỏi khoa học về cái đẹp, liệu có thể coi là tuỳ tiện không ? Đúng là mọi khoa học đều có quyền định ra cho mình một phạm vi tuỳ ý, nhưng chúng ta có thể hiểu sự giới hạn của mĩ học ấy theo một hướng khác. Trong đời sống hàng ngày, người ta có thói quen nói tới những màu sắc đẹp, một bầu trời đẹp, một dòng thác đẹp, rồi những bông hoa đẹp, những con vật đẹp và cả những con người đẹp nữa. Ở đây chúng tôi không đề cập tới vấn đề : phẩm chất đẹp được gán cho những đối tượng ấy là chính đáng với mức nào, và nói chung, liệu cái đẹp tự nhiên có thể đặt song song với cái đẹp nghệ thuật không. Nhưng ngay bây giờ, đã có thể cho rằng, cái đẹp nghệ thuật cao hơn cái đẹp tự nhiên””. Giải thích nguyên nhân nói trên, Hegel cho rằng : “Cái đẹp nghệ thuật là cái đẹp nảy sinh và hai lần nảy sinh từ tinh thần. Tinh thần và những sáng tạo của nó càng cao hơn tự nhiên bao nhiêu, thì cái đẹp nghệ thuật càng cao hơn cái đẹp tự nhiên bấy u”. Điều đó góp phần giải thích tại sao nhà triết học cổ điển nhiều Đức loại trừ cái đẹp trong thiên nhiên, ngay từ đầu ra khỏi phạm vi bộ món mi hoc.

Quan niệm của Hegel được nhiều nhà mĩ học hiện đại hưởng ứng. Hướng tới cái đẹp trong nghệ thuật hơn là cái đẹp trong tự nhiên, nhiều nhà mĩ học thế kỉ XX đã cố gắng tập hợp những đặc điểm chung của các khuynh hướng nghệ thuật nhằm rút ra tinh hoa của những khuynh hướng ấy.

Các nhà mĩ học duy vật trước Marx, tiêu biểu là các nhà Dân chủ cách mạng Nga thế kỉ XIX với Bielinski (1811 – 1848), Tsernushevski (1828 – 1889)… giải quyết vấn đề đối tượng của mĩ học theo một hướng khác. Họ không ngần ngại khi khẳng định rằng đối tượng của mĩ học là “quan hệ thẩm mĩ của con người với hiện thực”. Trong khi vẫn thừa nhận cái đẹp là đối tượng đáng chú ý của mĩ học, các nhà mĩ học Dân chủ cách mạng Nga nhìn thấy cái đẹp có nguồn gốc trong đời sống khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Bielinski, Tsernushevski thừa nhận “cái đẹp là cuộc sống”. Cái đẹp trong nghệ thuật là sự phản ánh cái đẹp trong cuộc sống, các phạm trù mĩ học phản ánh những phẩm chất khách quan, vốn có của những sự vật, hiện tượng trong thế giới hiện thực. Rõ ràng, cái đẹp và nghệ thuật luôn luôn gắn bó với nhau và lúc nào cũng được xem là những vấn đề trung tâm của mĩ học, là những hiện tượng nổi bật của đời sống thẩm mĩ. Nhưng cái đẹp cũng như nghệ thuật cũng chỉ là một phương diện của đời sống thẩm mĩ. Vì vậy, khi nói đối tượng của mĩ học là cái đẹp, mĩ học là khoa học nghiên cứu cái đẹp thì gọn gàng, dễ hiểu nhưng chưa toàn diện, chưa đầy đủ, chưa bao quát hết phạm vi nghiên cứu mà mĩ học quan tâm. Ngoài cái đẹp, mĩ học còn vươn ra nghiên cứu các hiện tượng thẩm mĩ khác như cái cao cả, cái bị, cái hài, nghiên cứu việc con người cảm thụ và sáng tạo các hiện tượng thẩm mĩ khách quan trọng đời sống. Cũng như vậy, khi khẳng định rằng “Mĩ học là triết học về nghệ thuật” thì tuy đã đánh giá đúng vị trí then chốt của nghệ thuật trong đối tượng của mĩ học nhưng lại không tránh khỏi sự phiến diện, giới hạn lĩnh vực nghiên cứu của khoa học này vào một phạm vi quá hẹp. Không chỉ tìm hiểu nghệ thuật, mĩ học còn hướng sự quan tâm tới đời sống thẩm mĩ – cội nguồn của nghệ thuật.

Tóm lại, trong lịch sử tư tưởng mĩ học đã từng lưu hành hai quan niệm phổ biến mĩ học là “khoa học nghiên cứu cái đẹp”, là “triết học về nghệ thuật”. Cả hai ngày càng bộc lộ tính hạn chế trong việc nhìn nhận đối tượng nghiên cứu của khoa học này.

II. ĐỐI TƯỢNG CỦA MĨ HỌC THEO QUAN ĐIỂM HIỆN ĐẠI

Con người có khả năng đồng hoá thế giới trên nhiều mặt, cả mặt vật chất lẫn tinh thần. Con người đồng hoá thế giới theo nhiều quy luật khác nhau trong đó có quy luật của cái đẹp. Marx từng phân biệt sự khác biệt giữa hoạt động của con vật và hoạt động của con người ở chỗ : hạt tr

“Súc vật cố nhiên cũng sản xuất. Nó xây dựng tổ, chỗ ở cho nó như con ong, con hải li, con kiến… Nhưng súc vật chỉ sản xuất cái mà bản thân nó hoặc con nó trực tiếp cần đến, sản xuất một chiều còn con người thì sản xuất một cách phổ biến; súc vật chỉ sản xuất dưới sự thống trị của nhu cầu vật chất trực tiếp, trong khi đó thì con người sản xuất ngay cả khi thoát khỏi nhu cầu vật chất, và chỉ khi thoát khỏi nhu cầu đó thì mới sản xuất theo ý nghĩa chân chính của chữ đó; súc vật chỉ tái sản xuất ra bản thân mình, còn con người thì sản xuất ra toàn bộ tự nhiên; sản phẩm của súc vật trực tiếp gắn liền với cơ sở vật chất của nó, còn con người thì đối lập một cách tự do với sản phẩm của mình. Súc vật chỉ nhào nặn vật chất theo thước đo và nhu cầu của giống loài của nó, còn con người thì có thể sản xuất theo thước đo của bất cứ giống nào và ở đâu cũng có thể áp dụng thuốc do thích dụng cho đối tượng, do đó con người cũng nhào nặn vật chất theo quy luật của cái đẹp” Theo Marx “quy luật của cái đẹp” là một trong những thước đo, nhu cầu mà con người cần phải tuân thủ bên cạnh những thước đo, nhu cầu thực tế bản năng – “nhu cầu của giống loài”.

Với ý nghĩa ấy, M.Gorki khẳng định : “Do bản chất của mình con người là nghệ sĩ. Bất cứ ở đâu, con người cũng ra sức, bằng cách này hay cách khác, lồng cái dẹp vào cuộc sống của mình. Con người cố đoạn tuyệt với kiếp thú chỉ một mục ăn uống và sinh n một cách hầu như vô ý thức và máy móc. Tất cả những gì do con người tạo nên đều có chúa dụng tâm hồn của họ” .

Con người có vô vàn mối quan hệ với hiện thực khách quan quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội. Giữa nhiều mối đó có một mối quan hệ được gọi là quan hệ thẩm mĩ. Mĩ học nghiên quan he cứu quan hệ này chứ không phải những quan hệ khác tuy rằng giữa chúng có liên quan với nhau. Ví dụ, quan hệ kinh tế, quan hệ đạo đức, quan hệ chính trị là đối tượng nghiên cứu của các ngành khoa học khác có tên gọi tương ứng với chúng kinh tế học, đạo đức học, chính trị học. Ngược lại, mã học với tư cách là một khoa học chỉ nghiên cứu quan hệ thẩm mĩ của con người đối với hiện thực. Quan hệ thẩm mĩ chỉ là một trong những mối quan hệ nhiều mặt của con người đối với hiện thực. Đứng trước một hiện tượng đời sống, nếu ta nhìn nhận hiện tượng đó theo hướng tiến bộ hay phản động tức là lúc đó ta đặt mình trong quan hệ chính trị. Nếu đánh giá hiện tượng đó là thiện hay ác tức là chúng ta đã phán xét nó từ quan hệ đạo dức. Khác trên, cũng hiện tượng ấy, khi con người nhìn nhận nó theo hướng đẹp, xấu là lúc con người chiêm nghiệm nó dưới góc độ thẩm mĩ. Chỉ có như vậy cuộc sống của con người mới trở nên hài hòa, phong phú. Với quan hệ thẩm mĩ, tâm hồn con người trở nên lắng dịu lại sau những toan tính, băn khoăn, dằn vặt trước cuộc đời vốn vô cùng ngổn ngang, bề bộn. Từ nơi sâu thẳm của tâm hồn, trước thời khắc mong manh của sự sống và cái chết, chị Sứ “đã quên phắt ngay lưỡi dao của thằng Xăm, quên mình đang bị trói, quên cả tên lính gác đang đi đi lại lại kia. Giờ chị chỉ trông thấy có mỗi mặt biển đang nhấp nhô sáng rộng ra đó, chị chỉ trông thấy cái ánh biếc ngời như tự lòng biển thẳm đang xô dậy trên đầu các ngọn sóng đó. Vầng trăng mười tám ngoi lên vàng rục…”. Chị “thấy xóm làng, thấy núi Ba Thế vòi või xanh lam, cứ mỗi buổi hoàng hôn lại hiện trắng những cánh cò…”. Cũng như vậy, cảm nhận của chúng ta trước vẻ đẹp đến ngỡ ngàng toát ra từ dáng vẻ chị Sứ “khẽ mỉm cười và lặng lẽ”, từ “khuôn mặt trái xoan thon thả của chị đang mở to đôi mắt đẹp đẽ chân thật”, từ “mái tóc óng mượt tươi tốt” của hai mươi bảy tuổi dời con gái, gồm muôn ngàn sợi bền chặt rủ từ đỉnh đầu xuống gót chân được tắm gội bằng mùi hương bông buổi mà cuộc đời đã hào phóng ban tặng cho chị là cảm nhận về mặt thẩm mĩ. Về phương diện khách thể thẩm mĩ, mĩ học nghiên cứu các

phạm trù : cái đẹp, cái cao cả, cai bị, cái hài. Phạm trù thẩm mĩ là khái niệm chung nhất, khái quát nhất thể hiện nhân thúc của con người trước những hiện tượng thẩm mĩ trong tự nhiên, xã hội, trong bản thân con người và nghệ thuật, thể hiện những quy luật cơ bản của hoạt động thẩm mĩ, của quan hệ thẩm mĩ của con người với hiện thực.

Trên phương diện chủ thể thẩm mĩ, mĩ học quan tâm tìm hiểu nghiên cứu những vấn đề cơ bản gồm tình cảm thẩm mĩ, quan điểm thẩm mĩ, thị hiếu thẩm mĩ, lí tưởng thẩm mĩ, chung quy lại là ý thức thẩm mĩ.

Như vậy, các hiện tượng thẩm mĩ khách quan của đời sống lẫn những rung động, cảm xúc thẩm mĩ chủ quan của con người đều thuộc phạm vi nghiên cứu của mĩ học. Nghệ thuật là hình thái biểu hiện tập trung nhất quan hệ thẩm mĩ của con người đối với hiện thực, hình thái cao nhất của việc đồng hóa thực tại bằng thẩm mĩ, đồng hóa theo quy luật của cái đẹp. Trong nghệ thuật con người không chỉ bày tỏ khía cạnh nhận thức về thế giới mà cả thái độ của mình với thế giới. Nó sẽ là đối tượng nghiên cứu của mĩ học. Từ những điều đã trình bày, chúng ta có thể định nghĩa :

Mĩ học là khoa học nghiên cứu phương diện thẩm mĩ trong đời sống xã hội, nghiên cứu những đặc điểm và quy luật chung nhất của mối quan hệ thấm mĩ của con người đối với hiện thực, đồng thời nghiên cứu những đặc điểm, nhưng quy luật chung nhất của nghệ thuật – một hình thái biểu hiện một cách tập trung nhất mối quan hệ trên.

Như ta nói trên, các quan hệ thẩm mĩ khách quan của đời sống hiện thực (tự nhiên, xã hội) và các cung bậc xúc động riêng tư, cảm xúc thẩm mĩ chủ quan của con người đều là đối tượng nghiên cứu của mĩ học. Nghiên cứu các mặt đó nghĩa là nghiên cứu bản thân mặt thẩm mĩ của đời sống xã hội. Nhưng bản thân mặt thẩm mĩ của đời sống xã hội được phản ánh trong một hình thái đặc thù của ý thức xã hội là nghệ thuật. Do đó, mĩ học một mặt nghiên cứu phương diện thẩm mĩ của đời sống, mặt khác phải nghiên cứu hình thái ý thức phản ánh mặt thẩm mĩ đó tức là nghiên cứu nghệ thuật bởi vì các quy luật của việc chiếm hữu thực tại được biểu hiện tập trung, trực tiếp ở nghệ thuật. “Chừng nào mà các quy luật của việc chiếm hữu thực tại bằng thẩm mĩ còn được biểu hiện trực tiếp, tập trung và đầy đủ nhất ở nghệ thuật thì chừng đó sẽ còn hợp lí để coi mĩ học trước hết như khoa học về bản chất và các quy luật của sáng tạo nghệ thuật”. Mĩ học vì thế được quan niệm là khoa học bao trùm, có ý nghĩa cơ sở lí thuyết chung cho mọi khoa học về nghệ thuật (nghiên cứu văn học, lí luận nghệ thuật tạo hình, nghiên cứu sân khấu, nghiên cứu âm nhạc). Vậy đặc trưng của nghệ thuật – đối tượng của mĩ học là gì bên cạnh các khoa học như triết học, nghệ thuật học ?

Triết học là khoa học nghiên cứu những quy luật chung nhất về sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Trong khi nghiên cứu về nghệ thuật, triết học chỉ xem xét, quan sát nghệ thuật với tư cách là một trong những hình thái của ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, tức là đề cập tới nghệ thuật khi nghiên cứu các quy luật chung nhất của toàn bộ hệ thống các hình thái ý thức xã hội trong quan hệ với tồn tại xã hội. Nói cách khác, triết học nghiên cứu nghệ thuật trên bình diện chung nhất – nghệ thuật là một hình thái ý thức, một phương diện nhận thức.

Nghệ thuật học là khoa học nghiên cứu những đặc điểm, những quy luật chung nhất của nghệ thuật – một hình thái đặc thù của ý thức xã hội, cũng như những đặc điểm, quy luật chung nhất của các loại hình nghệ thuật.

Mỗi bộ môn nghệ thuật chỉ quan tâm tới những gì có ý nghĩa trong phạm vi của mình. Chẳng hạn, lí luận văn học nghiên cứu những phương diện thuộc loại hình, loại thể văn học. Các loại hình

sân khấu lại là mối quan tâm của sân khấu học.

Khác triết học và nghệ thuật học, mĩ học coi nghệ thuật là một bộ phận rất lớn, quan trọng trong đối tượng mà nó nghiên cứu với mục tiêu khám phá tính quy luật của việc chiếm lĩnh thục tại bằng thẩm mĩ, khám phá bản chất của nghệ thuật. Có nghĩa là mĩ học nghiên cứu những đặc điểm, quy luật bao quát nhất của nghệ thuật một hình thái biểu hiện tập trung nhất quan hệ thẩm mĩ của con người với thực tại.

Khái quát lại, hiện nay đối tượng của mĩ học được quan niệm tương đối thống nhất : mĩ học là khoa học nghiên cứu những quy luật phổ biến nhất trong mối quan hệ thẩm mĩ của con người với hiện thực và những quy luật phổ biến của quá trình phát triển nghệ thuật, một hình thái đặc thù của ý thức xã hội. cua

Cấu trúc của mĩ học bao gồm những bộ môn có tính chất độc lập tương đối : lí luận về sáng tạo nghệ thuật, lí luận khai hóa môi trường vật chất, lí luận giáo dục thẩm mĩ.

Với tư cách là một khoa học độc lập, mĩ học hướng về nghiên cứu những vấn đề sau đây :

– Những lĩnh vực đa dạng của sự sáng tạo thẩm mĩ của con người

– Những thị hiếu thẩm mĩ và quan điểm thẩm mĩ khác nhau.

– Những phẩm chất thẩm mĩ của thực tại, tức là nghiên cứu những phạm trù mĩ học cơ bản : cái đẹp, cái cao cả, cái bị, cái hài.

– Việc giáo dục thẩm mĩ phát triển ở con người năng lực thẩm mĩ, cảm nhận cái đẹp và sáng tạo theo quy luật cái đẹp.

– Những quy luật phổ quát của nghệ thuật, hình thái biểu hiện đầy đủ nhất quan hệ thẩm mĩ của con người với thực tại như ta nói trên.

– Bản chất của các trào lưu, trường phái, khuynh hướng nghệ thuật.

– Đời sống lịch sử của nghệ thuật dựa trên sự phân tích về xã

hội – lịch sử và tâm lí học. Những điều trình bày trên đây cho thấy mĩ học là một môn khoa học độc lập với một đối tượng nghiên cứu riêng thực hiện những nhiệm vụ riêng.

Đối tượng của một khoa học không phải là một hiện tượng bất biến. Đối tượng của khoa học mĩ học hắn cũng không thể cưỡng lại quy luật nói trên. Đời sống thẩm mĩ luôn luôn trong quá trình vận động, phát triển cho nên những phương diện thuộc đối tượng nghiên cứu của mĩ học cũng buộc phải thay đổi. Một khi đối tượng nghiên cứu của mĩ học có biến đổi thì bản thân khoa học mĩ học, do vậy cũng biến đổi theo nhằm đáp ứng nhu cầu nghiên cứu về đối tượng đó.

Sự phát triển trong giao lưu và giao thoa của các khoa học liên ngành cũng là một yếu tố góp phần tạo ra sự phát triển của mĩ học.

Ở thời điểm hiện nay do “sự thâm nhập của yếu tố nghệ thuật vào nhiều lĩnh vực của đời sống và ý thức, do sự mở rộng đáng kể của chính lĩnh vực chiếm lĩnh hiện thực bằng thẩm mĩ, cho nên, cùng với các vấn đề truyền thống của việc bộc lộ cái thẩm mĩ trong tự nhiên và trong nghệ thuật, một loại đối tượng quan trọng được mĩ học quan tâm là sự phát triển mạnh mẽ của các dạng hoạt động thẩm mĩ nằm ngoài ranh giới của sáng tác nghệ thuật, bao gồm các vấn đề về thẩm mĩ, kĩ thuật, các hoạt động nhằm tổ chức thẩm mĩ đối với môi trường, các vấn đề giáo dục thẩm mĩ như thể thao (mĩ học thể thao). Sự mở rộng như vậy của đối tượng mĩ học gắn liền với giai đoạn tách mĩ học ra thành một lĩnh vực tri thức độc lập, trước hết là độc lập với triết học và nghệ thuật học”.

Từ tất cả những điều đã trình bày trên đây, có thể rút ra một số kết luận sau

1. Trước khi mĩ học hình thành với tư cách là một khoa học độc lập, có đối tượng nghiên cứu riêng, nó được quan niệm là “khoa học về cái đẹp” hoặc “triết học về nghệ thuật”.

2. Từ xa xưa, mĩ học đã hình thành và phát triển trong lòng triết học. Lịch sử mĩ học cũng như lịch sử triết học phản ánh cuộc đấu tranh giữa hai trường phái cơ bản, cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Cuộc chiến giữa hai trường phái nói trên trong triết học được chuyển hoá thành sự đối lập giữa các quan niệm duy vật và duy tâm, về bản chất cái thẩm mĩ và bản chất của nghệ thuật. Do đó, không phải ngẫu nhiên trên thế giới, ở phương Tây cũng như ở phương Đông, nhiều nhà triết học cũng đồng thời là nhà mĩ học, và ngược lại. Những tri thức về mĩ học không thể tách rời tri thức về triết học. Các đại biểu xuất sắc, tiêu biểu của mĩ học duy vật không thể không nhắc tới là Aristote (384-322 TCN), Diderot (1713-1784), Bielinski (1811-1848), Tsernushevski (1828 – 1889), Dobroliubov (1836 – 1861). Nói đến các nhà mĩ học duy tâm trước hết phải nói đến Platon (427 – 347 TCN), Kant (1724 – 1804), Hegel (1770 – 1831)… Nếu mĩ học duy Với thừa nhận cái đẹp tồn tại khách quan trong thế giới hiện thực thì mĩ học duy tâm khẳng định cái đẹp là bất biến chỉ tồn tại trong thế giới các ý niệm. Nếu những nhà mĩ học duy tâm và các đồng sự coi cái đẹp là sự hiểu hiện của ý niệm tuyệt đối thì Tsernushevski và các nhà mĩ học duy vật khác luôn luôn thừa nhận rằng “Cái đẹp là cuộc sống” cái đẹp vốn tồn tại trong bản thân thế giới hiện thực.

This entry was posted in Chưa phân loại. Bookmark the permalink.