Học thuyết phát triển tâm lý của Erikson (PsyData122017)

Học thuyết phát triển tâm lý của Erik Erikson (1959) chia ra làm tám giai đoạn riêng biệt: năm giai đoạn đầu diễn ra tới năm 18 tuổi và ba giai đoạn còn lại trải dài tới tuổi trưởng thành. Erikson cho rằng quá trình trưởng thành và phát triển kéo dài xuyên suốt cuộc đời một người. Ông đặc biệt nhấn mạnh tới giai đoạn thiếu niên vì theo ông đây là giai đoạn mấu chốt để hình thành căn tính (identity) của một người.

Giống như Freud, Erikson nhận định rằng mỗi giai đoạn phát triển sẽ xảy ra từng khủng hoảng đặc trưng. Theo ông (1963), những khủng hoảng này là thuộc về bản chất tâm lý xã hội (psychosocial nature) bởi chúng bao gồm nhu cầu tâm lý của cá nhân (tâm thần) trong tương quan mâu thuẫn với những đòi hỏi từ cộng đồng (xã hội).

Theo học thuyết, sự hoàn thành thành công ở mỗi giai đoạn sẽ đưa đến được một nhân cách lành mạnh và đạt được những đức tính cơ bản. Đó là các điểm mạnh tiêu biểu mà bản ngã (Ego) có thể sử dụng để giải quyết khủng hoảng về sau.

Thất bại trong việc thành toàn một giai đoạn có thể dẫn đến giảm sút khả năng hoàn thành các giai đoạn tiếp theo. Do vậy hình thành một nhân cách và cảm thức về bản thân kém lành mạnh hơn. Tuy vậy, những giai đoạn này có thể được thay đổi theo hướng tốt hơn sau đó.

8 giai đoạn đó là:

  1. Tin tưởng hay Hoài nghi (Trust vs. Mistrust)

Thế giới có phải là một nơi an toàn hay đầy rẫy những sự kiện không lường trước, những tai nạn có thể xảy ra? Khủng hoảng tâm lý xã hội (psychosocial crisis) đầu tiên trong học thuyết của Erikson diễn ra trong năm đầu (giống như giai đoạn môi miệng của thuyết phát triển tâm tính dục của Freud). Khủng hoảng này là một phần của giai đoạn tin tưởng và hoài nghi.

Trong giai đoạn này, trẻ không chắc chắn về thế giới mà chúng đang sống. Để giải tỏa cảm giác bất an, trẻ sẽ phụ thuộc vào người chăm sóc chính để có sự quan tâm chăm sóc ổn định và liên tục.

Nếu đứa trẻ nhận được sự chăm sóc liên tục, có thể đoán được và đáng tin cậy, chúng sẽ phát triển cảm nhận về niềm tin – điều sẽ mang chúng tới với những mối quan hệ khác, và trẻ sẽ có thể cảm thấy an toàn ngay cả khi bị đe dọa.

Thành công ở giai đoạn này sẽ hình thành hy vọng (Hope). Bằng việc phát triển cảm giác tin tưởng, trẻ có thể có hy vọng rằng khi những khủng hoảng mới xảy ra, có khả năng những người khác sẽ ở bên hỗ trợ chúng. Thất bại trong giai đoạn này sẽ dẫn đến sự sợ hãi.

Ví dụ, nếu sự chăm sóc khắt khe hay không liên tục, không dự đoán được và không đáng tin, thì đứa trẻ sẽ phát triển sự hoài nghi và sẽ không có lòng tin vào thế giới hoặc vào khả năng ảnh hưởng lên các sự kiện xung quanh trẻ.

Đứa trẻ này sẽ mang theo sự hoài nghi của chúng đặt vào những mối quan hệ khác. Điều này có thể dẫn tới lo âu, cảm giác bấp bênh và sự nghi ngờ thái quá đối với thế giới quanh nó.

Đồng tình với cách nhìn của Erikson về tầm quan trọng của niềm tin, những nghiên cứu của Bowlby và Ainsworth đã chỉ rõ chất lượng của những trải nghiệm ban đầu về sự gắn bó có thể ảnh hưởng như thế nào tới những mối quan hệ với những người khác.

  1. Tự chủ hay Hổ thẹn (Autonomy vs. Shame and Doubt)

Trẻ đang phát triển về thể chất và càng ngày càng trở nên năng động.

Trong khoảng thời gian từ 18 tháng đến 3 tuổi, trẻ bắt đầu muốn khẳng định sự độc lập của mình bằng cách đi xa khỏi mẹ, chọn đồ chơi để chơi, tự chọn quần áo hay đồ ăn….

Đứa trẻ khám phá ra rằng chúng có rất nhiều kĩ năng và khả năng như mặc quần áo, mang giày, chơi đồ chơi… Những kĩ năng này thể hiện sự phát triển trong khả năng độc lập và tự chủ. Erikson cho rằng điều quan trọng là cha mẹ để trẻ tự khám phá những giới hạn về khả năng của chúng trong một môi trường khuyến khích và khoan dung với những sai lầm.

Ví dụ, thay vì mặc quần áo cho trẻ thì một bậc cha mẹ biết khích lệ sẽ kiên nhẫn chờ đứa trẻ tự mặc đến khi được hoặc đến khi trẻ nhờ giúp đỡ. Do vậy, cha mẹ cần khuyến khích con cái trở nên độc lập hơn trong khi vẫn bảo vệ chúng để việc thất bại liên tục không xảy ra.

Cha mẹ cần giữ được sự cân bằng tinh tế. Họ cần cố gắng không thay trẻ làm mọi việc, nhưng nếu trẻ thất bại trong việc cụ thể nào đó thì không được chỉ trích trẻ (đặc biệt khi tập cho trẻ đi vệ sinh). Mục tiêu phải là “tự kiểm soát mà không mất đi tự tin” (Gross, 1992). Thành công trong giai đoạn này giúp hình thành ý chí (Will).

Nếu trong giai đoạn này, trẻ được khuyến khích và hỗ trợ trong việc phát triển khả năng tự lập, trẻ sẽ trở nên tự tin hơn và đảm bảo dựa vào kĩ năng bản thân để tự tồn tại.

Khi trẻ bị chỉ trích, bị kiểm soát quá chặt chẽ, hoặc không được cho cơ hội khẳng định bản thân, chúng sẽ bắt đầu cảm thấy không đủ khả năng tự sống, và có thể dựa dẫm quá mức vào người khác, thiếu tự tin, thấy hổ thẹn về khả năng của bản thân.

  1. Chủ động và Mặc cảm

Khoảng từ 3 đến 5 tuổi, trẻ khẳng định bản thân thường xuyên hơn. Đây là những năm hoạt bát và phát triển nhanh nhất trong cuộc đời trẻ. Theo Bee (1992), đây là “khoảng thời gian mà cha mẹ có thể cảm thấy sự hung hăng trong hoạt động và hành vi của trẻ.”

Đặc trưng của trẻ trong giai đoạn này là thường xuyên tương tác với những đứa trẻ khác ở trường. Trung tâm của giai đoạn này là vui đùa, bởi nó tạo cho trẻ cơ hội để khám phá các kĩ năng tương tác với người khác qua các hoạt động chủ động.

Trẻ bắt đầu lên kế hoạch hành động, nghĩ ra các trò chơi, chủ động tiếp xúc với những đứa trẻ khác. Nếu có cơ hội này, trẻ sẽ xây dựng được sự chủ động và tự tin vào khả năng lãnh đạo người khác và đưa ra quyết định.

Ngược lại, nếu xu hướng này bị kìm hãm, dù qua sự chỉ trích hay kiểm soát, trẻ sẽ phát triển cảm giác tội lỗi. Chúng có thể thấy bản thân như một sự phiền toái đối với người khác . Do đó, chúng sẽ chỉ biết vâng dạ và thiếu đi sự chủ động.

Đứa trẻ chủ động sẽ bị cha mẹ ngăn lại nhằm bảo vệ chúng. Trẻ thường cố vượt sự ép buộc này, điều này dẫn tới nguy cơ cha mẹ sẽ trừng phạt trẻ và hạn chế sự chủ động của chúng quá nhiều.

Ở giai đoạn này, trẻ sẽ bắt đầu thắc mắc rất nhiều do khao khát hiểu biết đang phát triển. Nếu cha mẹ nhìn nhận những câu hỏi của trẻ là không quan trọng, phiền toái hoặc đáng xấu hổ hay xem những mặt khác trong hành vi của trẻ là sự đe dọa, thì trẻ sẽ có cảm giác tội lỗi vì là “điều phiền phức”

Mặc cảm quá cao sẽ làm trẻ tương tác chậm với người khác và làm hạn chế óc sáng tạo của chúng. Dĩ nhiên cảm giác tội lỗi là cần thiết, vì nếu không thì trẻ sẽ không biết rèn luyện khả năng tự kiểm soát ra sao hay có lương tâm là như thế nào.

Sự hài hòa giữa chủ động và mặc cảm là điều quan trọng. Thành công trong giai đoạn này giúp phát triển mục đích (purpose).

  1. Năng lực (Chuyên cần) hay Tự ti (Industry (competence) vs. Inferiority)

Đây là giai đoạn thứ tư trong thuyết phát triển tâm lý xã hội của Erikson. Giai đoạn này diễn ra trong khoảng từ 5 đến 12 tuổi.

Trẻ ở giai đoạn này được học đọc, viết, tính toán, tự làm mọi thứ. Giáo viên bắt đầu đóng vai trò quan trọng trong cuộc đời của trẻ do họ dạy trẻ những kĩ năng này.

Đây là giai đoạn bạn bè đồng lứa trở nên quan trọng hơn và là nguồn chính cho sự tự tin của trẻ. Chúng cảm thấy cần đạt được sự công nhận bằng cách thể hiện những khả năng nhất định được xã hội coi trọng và bắt đầu phát triển cảm giác tự hào về những thành tích của mình.

Nếu trẻ được khuyến khích và củng cố tính chủ động, chúng sẽ bắt đầu cảm thấy tự tin vào khả năng đạt được mục tiêu của mình. Ngược lại, nếu sự chủ động bị giới hạn bởi giáo viên hoặc gia đình thì trẻ sẽ cảm thấy tự ti, nghi ngờ khả năng của chính mình và do vậy có thể sẽ không chạm tới được tiềm năng của mình.

Nếu trẻ không thể phát triển kĩ năng nào đó mà xã hội mong đợi thì chúng sẽ hình thành cảm giác tự ti. Một vài lần thất bại sẽ cần thiết để trẻ có được sự khiêm tốn. Một lần nữa, sự cân bằng giữa khả năng và sự khiêm tốn là cần thiết. Thành công trong giai đoạn này sẽ tạo ra năng lực (competence).

  1. Căn tính hay Nhầm lẫn về vai trò (Identity vs. Role Confusion)

Giai đoạn thứ năm là căn tính và sự nhầm lẫn vai trò, xảy ra vào tuổi dậy thì từ khoảng 12 đến 18 tuổi. Trong giai đoạn này, trẻ vị thành niên sẽ tìm kiếm cảm thức bản thân và căn tính thông qua sự khám phá đầy nhiệt huyết về các giá trị cá nhân, niềm tin và mục đích.

Trong giai đoạn dậy thì (adolescence), khoảng chuyển giao từ thơ ấu sang trưởng thành là quan trọng nhất. Trẻ trở nên độc lập hơn, và bắt đầu hướng về phía tương lai xét trên mặt sự nghiệp, quan hệ, gia đình, nhà cửa,… Cá nhân trẻ muốn thuộc về một xã hội và hòa nhập với nó.

Đây là giai đoạn chủ chốt của sự phát triển, ở đó trẻ phải học được vai trò mà bản thân sẽ đảm nhận khi trưởng thành. Chính giai đoạn này, trẻ sẽ tự xem xét lại căn tính của mình và cố gắng tìm ra chính xác mình là ai. Erikson đề xuất có hai căn tính bao gồm: giới tính (sexual) và nghề nghiệp (occupational).

Theo Bee (1992), điều nên xảy ra ở cuối thời kì này là “ý thức được cảm thức tái thống hợp về bản thân, về việc bản thân muốn làm gì hoặc về vai trò giới tính thích hợp của mình”. Trong giai đoạn này, hình thể của trẻ sẽ thay đổi.

Erikson khẳng định rằng trẻ có thể cảm thấy không thoải mái về cơ thể của mình trong một khoảng thời gian cho đến khi chúng có thể thích nghi và “trở thành” những thay đổi. Thành công trong giai đoạn này sẽ tạo nên tính trung thành (fidelity).

Sự trung thành bao gồm khả năng gắn bó với người khác dựa trên nền tảng chấp nhận họ, kể cả khi có những khác biệt về lý tưởng.

Trong giai đoạn này, trẻ khám phá những tiềm năng và bắt đầu hình thành nhân cách dựa trên kết quả của sự khám phá đó. Thất bại trong việc xác định căn tính trong xã hội (Tôi không biết mình muốn trở thành gì khi lớn lên) có thể dẫn tới sự nhầm lẫn về vai trò. Nhầm lẫn về vai trò khiến cá nhân không chắc chắc về bản thân hay vị trí của họ trong xã hội.

Để đối phó với sự nhầm lẫn về vai trò hay khủng hoảng căn tính, trẻ có thể bắt đầu thử nghiệm nhiều cách sống khác nhau (làm việc, giáo dục hoặc chính trị,..). Việc áp đặt một căn tính lên một người có thể dẫn đến sự phản kháng bằng cách hình thành căn tính tiêu cực, thêm vào đó là cảm giác bất hạnh.

  1. Gắn bó hay Cô lập (Intimacy vs. Isolation)

Xảy ra vào thời gian đầu của tuổi trưởng thành (18-40 tuổi), chúng ta bắt đầu chia sẻ bản thân một cách gần gũi hơn với người khác. Chúng ta tìm kiếm các mối quan hệ dẫn đến sự gắn bó lâu dài với ai đó không phải là thành viên gia đình.

Hoàn thành thành công giai đoạn này có thể dẫn tới những mối quan hệ hạnh phúc và cảm giác gắn bó, an toàn và sự quan tâm trong mối quan hệ. Việc tránh né sự gần gũi, sợ ràng buộc và sợ các mối quan hệ có thể gây ra sự cô lập, cô đơn và đôi khi là trầm cảm. Thành công ở giai đoạn này đưa đến tình yêu thương (love).

  1. Chuyển giao thế hệ hay Trì trệ (Generativity vs. Stagnation)

Đến tuổi trung niên (45-65 tuổi), chúng ta tạo dựng sự nghiệp, ổn định trong một mối quan hệ, xây dựng một gia đình và phát triển và có cảm giác là một phần của bức tranh lớn hơn.

Chúng ta đóng góp lại cho xã hội bằng cách nuôi nấng con cái, làm việc năng suất, và tham gia các hoạt động cộng đồng và tổ chức.

Thất bại trong việc đạt được những mục tiêu này, chúng ta sẽ trở nên trì trệ và cảm thấy vô dụng. Thành công trong giai đoạn này tạo ra sự quan tâm (Care).

  1. Sự thống hợp bản ngã hay Tuyệt vọng (Ego Integrity vs. Despair)

Khi chúng ta già đi (65+) và trở thành công dân cao tuổi, chúng ta có xu hướng sống chậm lại và tận hưởng cuộc sống của một người đã nghỉ hưu. Đây là khoảng thời gian chúng ta nhìn ngắm thành quả của mình và có thể phát triển sự thống hợp nếu như ta cảm thấy mình đã sống một cuộc đời thành công, trọn vẹn.

Erik Erikson tin rằng nếu ta thấy cuộc sống của mình vô ích, cảm thấy tội lỗi về quá khứ hoặc cảm thấy bản thân đã không hoàn thành được mục đích sống, ta sẽ cảm thấy bất mãn với cuộc sống và trở nên tuyệt vọng, thường dẫn tới trầm cảm và cảm thấy vô vọng.

Thành công trong giai đoạn này giúp ta có sự thông thái (Wisdom). Sự thông thái giúp một người nhìn lại cuộc sống của mình với cảm giác hoàn chỉnh và thỏa mãn, và cũng có thể chấp nhận cái chết một cách thanh thản.


Nguồn: McLeod, S. A. (2013). Erik Erikson. Truy xuát từ http://www.simplypsychology.org/Erik-Erikson.html

Người dịch: Bùi Minh Đức, Võ Minh Đạt

Người biên tập: Nguyễn Kiều Anh Trang, Lục Chấn Kiệt

Design: Hạnh My